Saturday, May 22, 2010

Sài Gòn: Hành lang Eden, tứ giác chết

Friday, May 21, 2010






Nguyễn Ðạt/Người Việt

Sau hai tuần lễ tù túng - vì bị tai nạn đứt gân đầu gối, Hương lê chân xuống 60 bực thang chung cư, rồi cà nhắc thêm vài bực thềm nữa, chúng tôi ngồi trong Hotel Continental, để Hương ngó xéo qua Givral, thấy một góc lịch sử Sài Gòn đang chết.
Tôi hớp vài ngụm cà phê ngọt ngậy, loại cà phê pha vụng của Saigon Tourist, tệ hơn cà phê vỉa hè, rồi chui vào lòng Givral vừa bị mổ bụng. Từ chỗ cái chết của nó, tôi nhìn ra, thấy những ánh mắt tò mò, không chỉ của du khách. Họ chụp vài tấm hình, rồi thản nhiên đi qua, nhưng có một người, cặm cụi, nói với tôi, anh muốn làm một người chứng, và chụp rất nhiều hình từ cái địa chỉ sắp biến mất này. Trong những ánh mắt nhìn vô, nơi tôi đứng, có cái ngó xéo của Hương, và trong cái ngó xéo đó, những cái chết chồng chéo, xẹt qua, cày đi xới lại vẫn tiếp diễn. Quá khứ và hiện tại, trong những ngày tháng 4, đối với một số người, là cảm xúc của tình trạng bị bức tử, còn đối với một số người khác, là cảm xúc hả hê đầy cảnh giác.

Hành lang Eden. (Hình: Nguyễn Ðạt)


Tôi chui khỏi cái bụng tanh bành của Givral, và chợt nhớ hai câu thơ Eliot trong Ðất Hoang, tháng 4 là tháng ác nghiệt nhất, tháng tử đinh hương sinh sôi từ đất chết. Dù trong hay ngoài hay ở giữa cái chết, của lịch sử hay cá nhân, đều phải đối mặt với sự bất an. (Nguyễn Quốc Chánh)
Hành lang Eden - Passages Eden - là một góc “linh hồn Sài Gòn.” Nhắc nhớ Sài Gòn không thể không nhắc nhớ Hành lang Eden. Khối nhà liên kết gồm 4 tầng theo kiến trúc phương Tây có “Hành lang Eden” ở tầng trệt, nằm gọn giữa 4 phố: Tự Do-Lê Thánh Tôn-Lê Lợi-Nguyễn Huệ. Bốn mặt Hành lang Eden nhìn ra 4 con đường đẹp nhất Sài Gòn. Rạp chiếu phim “Eden” giữa lòng Hành lang Eden - không hoạt động từ sau 30 tháng 4, 1975 - mặt tiền nhìn ra đường Tự Do. Chếch lên phía Nhà thờ Ðức Bà, bên kia đường Tự Do nay là đường Ðồng Khởi, một công viên trên nền cao. Công viên mang tên Chi Lăng đó không còn dấu vết gì từ hai năm nay, tòa nhà cao tầng hiện đại xuất hiện ở đây mang tên “Vincom Center,” hung hãn dự phần vào việc phá vỡ không gian của cả một khu vực. “Khu tứ giác Eden,” như bây giờ người ta gọi vậy, bao gồm trong đó hai nhà hàng - chủ yếu là cà phê, giải khát - không thể quên trong lịch sử Sài Gòn từ xưa tới nay: La Pagode và Givral. Nhà hàng La Pagode ở một đầu của tứ giác - góc đường Tự Do và Lê Thánh Tôn - mặc dù sau 30 tháng 4, 1975 trở thành Văn phòng công ty dịch vụ lữ hành Saigon Tourist, vẫn ở tại chỗ trong khu tứ giác Eden, bâng khuâng nhắc nhớ một thời cho những hoài niệm trân trọng của người Sài Gòn. Ðầu kia của tứ giác, nhà hàng Givral - góc đường Tự Do và Lê Lợi - may mắn hơn, kéo dài tuổi thọ tới hôm nay.
Bây giờ thì, cả La Pagode và Givral, chỉ còn âm thầm lưu lại hình ảnh mình trong sách báo, ở những cuốn album kỷ niệm của gia đình, ở mạng tìm kiếm trên Internet... Các nhiếp ảnh gia, các bác “phó nhòm” chuyên nghiệp chụp ảnh của Sài Gòn, ai ai cũng từng nhiều lần ghi hình ảnh khu vực quảng trường Lam Sơn, chọn lựa góc phố trước mặt Givral, vòm cong mái hiên kiều diễm của Givral thân thuộc không thể lẫn với bất cứ cửa tiệm nhà hàng nào ở khu tứ giác Eden và các khu vực lân cận.
Người dân Sài Gòn không biết tại sao nhà nước phá bỏ khu tứ giác Eden, một trong những công trình kiến trúc xưa, từ thời thuộc Pháp, là những công trình kiến trúc chủ yếu góp phần làm nên một Sài Gòn từng được gọi là “Hòn ngọc Viễn Ðông.”
Chúng tôi đọc trên tấm băng-rôn treo ở khu tứ giác Eden, những dòng chữ thông báo: “Vì lý do Ủy Ban Nhân Dân quận 1 thu hồi mặt bằng khu thương mại Eden theo thông báo số..., ngày 23 tháng 3, 2010...” Và những ngày sau đó tiến hành việc phá dỡ, tất nhiên bắt đầu phá dỡ ở bên trong các cửa tiệm nhà hàng hiệu sách, các văn phòng giao dịch thương mại... Thời điểm tiến hành phá dỡ cũng là dịp nhà nước chuẩn bị chào mừng 35 năm ngày “giải phóng hoàn toàn miền Nam,” tiếp đó chào mừng kỷ niệm ngày sinh của “bác.” Nên khu tứ giác Eden có rất nhiều ngày nhộn nhạo, vừa tháo dỡ đục phá bên trong, vừa treo băng-rôn chào mừng cùng khắp, bao gồm cả những băng-rôn của các cửa tiệm, đơn vị thương mại... thông báo cho khách hàng biết địa điểm sẽ dời chuyển tới.

Căn phố ngay góc đường trước kia là tiệm ăn La Pagode, nơi giới viết văn, làm báo ở Sài Gòn
ngồi uống cà phê, đấu láo hàng ngày. (Hình: Nguyễn Ðạt)



Chúng tôi gặp hai du khách nước ngoài đứng trước một cửa tiệm - biển hiệu ghi: Boutique Ngọc Châu/Since 1969 - sắp di dời, họ lắc đầu, nói với chúng tôi: “Sài Gòn của các bạn rất kỳ lạ, phá bỏ một khu vực có kiến trúc xưa vững chắc, hoàn mỹ như Passages Eden. Chúng tôi không thấy nơi nào trên thế giới như vậy. Chúng tôi biết, như tại Ba Lan, nhà phố và các công trình kiến trúc ở Vac-sa-va bị tàn phá suốt thời kỳ Thế Chiến Thứ Hai, đã được xây dựng lại theo đúng nguyên dạng ngay khi có thể. Ở đây thì lại tự động phá bỏ những công trình kiến trúc đã làm nên vẻ đẹp của Sài Gòn...”
Ký giả Glen MacDonald, trong buổi chính quyền thành phố tổ chức gặp gỡ các hãng truyền thông và ký giả quốc tế nhân dịp kỷ niệm ngày 30 tháng 4 vừa qua, đã nêu câu hỏi về việc Sài Gòn phá bỏ “Passages Eden,” một trong những công trình có kiến trúc đẹp. Vị phó chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố đã trả lời rằng khu Eden là một công trình đã xuống cấp, phải khẩn trương xây dựng mới... Rồi nói lảng tránh, bào chữa, rằng thành phố đặc biệt quan tâm bảo tồn kiến trúc cảnh quan đẹp, trong đó có những kiến trúc xây dựng từ thời Pháp, đơn cử như tòa nhà Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố - Tòa Ðô Chính của Sài Gòn cũ.
Chúng tôi vẫn thường xuyên lui tới những lối Hành lang Eden tìm hình bóng cũ, uống cà phê Givral, vào Nhà sách Xuân Thu - Albert Portail cũ - xem sách ngoại văn, không hề thấy một dấu hiệu xuống cấp nào.
Khu tứ giác Eden, với những cửa tiệm sang trọng bán hàng ngoại nhập, xa xỉ phẩm, sách báo nước ngoài, luôn được gia cố, sửa chữa, chỉnh trang. Và nếu khu tứ giác Eden xuống cấp, thì cũng xuống cấp cùng với toàn bộ những công trình xây dựng từ thời Pháp, trong đó có tòa nhà Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố mà vị phó chủ tịch đã nhắc tới.

Quán cà phê Givral nhìn từ khách sạn Continental. (Hình: Nguyễn Quốc Chánh)


Chúng tôi nhận thấy, khu tứ giác Eden, với Hành lang Eden mang đậm màu sắc Sài Gòn cũ, dấu ấn tính cách sinh hoạt của dân chúng miền Nam tự do thuở trước. Và chúng tôi nghĩ, hẳn điều này không vui vẻ hòa hợp chút nào với những người đại thắng 30 tháng 4, những người luôn mang trong mình “cảm xúc hả hê đầy cảnh giác.”

Wednesday, May 12, 2010

VIỆT-NAM – QUÊ-HƯƠNG NGẠO-NGHỄ. XƯA HÀ-NỘI CỦA TÔI - NAY HÀ-NỘI CỦA AI ?

Cửa Tùng (sông Bến-hải) với cây cầu bắc ngang cửa Tùng. Đứng nhìn từ bờ Bắc.
Van Toan
Nói đến Hà-nội từ thời trước năm năm mươi bốn. Hẳn bất cứ ai đã một thời sinh-sống, hoặc được lớn lên, hoặc được ăn học, hoặc ít nhất cũng được sinh ra tại nơi đó. Tất thảy đều lấy làm hãnh-diện lẫn đôi chút tự-phụ. Nói đến Hà-nội, những ai có chút văn-nghệ, một chút lãng-mạn, thi-ca trong người, ai là người không phải bồi-hồi xúc-cảm khi nghe thoáng qua, hoặc chợt nhớ lại Hà-nội.
Nói đến Hà-nội ai là không liên-tưởng tới những chàng trai thanh-tú, lịch-lãm, hào-hoa, bay bướm. Những nàng tiểu-thư khuê-các, thuỳ-mị đài-trang pha chút kênh-kiệu, những thiếu-nữ thướt-tha dịu-dàng trong tà áo tung bay của những buổi dạo chơi phố-phường …


Nói đến Hà-nội ai không biết đến 36 phố-phường. Đến những tác-phẩm lãng-mạn một thời làm điêu-đứng, bởi độc-giả vì nó phải mơ mơ, mộng mộng. Những tiểu-thuyết Tố Tâm … Hồn bướm mơ tiên …
Nói đến dân Hà-nội, ai không phải kiêng-nể một chút về tính-chất văn-chương trong khoa ăn nói. Lịch-sự thái quá đến độ khách-sáo.
Nói đến Hà-nội khiến ai không là người phải nhớ-nhung đến mùa Thu, đến màu xanh, đến tình-yêu của Đoàn-Chuẩn - Từ-Linh.

Em ơi có xuân nào không tàn, có màu nào không phai … Em còn nhớ, anh nói rằng, khi nào em đến với anh, xin đừng quên chiếc áo xanh. Nhưng em ơi ! Có thu nào không tàn, có tình nào không phai ? Như tình anh với em !
Nói đến Hà-nội hẳn chúng ta không thể không chút xao-xuyến khi nghe :

Hà-nội ngày tháng cũ, có bóng trăng thơ in trên mặt hồ - Hà-nội ngày tháng cũ, có tiếng oanh ca bên bờ tường-vi. Có dáng em tôi áo trắng nghiêng-nghiêng đường chiều ..........
Hà-nội ngày tháng cũ, mãi mãi theo tôi trôi trên biển đời .............
Nhưng với tôi nay thì :
Chiếc lá cô đơn lang-thang trôi trên vỉa hè. Dù đường xưa vắng ... Ai chờ !!!
Ôi Hà-nội của tôi ơi ! Sao … mà tôi cứ cảm-tưởng đó chỉ là những truyện cổ-tích, những truyện không bao giờ có thực trên cõi đời ô-trược này !
Dân năm tư đã đem gần như hết sạch, đem gần như trọn vẹn "Hà-nội" vào trong Nam trên con đường tìm tự-do rồi ư ? Phải chăng vì lý-lẽ đó mà Hà-nội xưa của tôi, nay Hà-nội là của ai ? (Mượn tứ của cụ Vũ-Hoàng-Chương : Xưa Tố của Hoàng, nay Tố của ai ? – 12 tháng 6).
Mỗi lần tôi đến Hà-nội, tôi không sao giữ được ý-niệm là về lại nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Mang tiếng là quê cha đất tổ. Nhưng tôi vẫn thấy rõ rệt nơi mình cái cảm-nghĩ : Xứ lạ quê người !
Hà-nội bây giờ lạ quá, lạ từ lời ăn tiếng nói, lạ từ dáng đi, nếp sống, ý ăn, ý ở.
Đàn bà, con gái thì cười nói cứ gọi là rất tự do. Nói theo ngôn-ngữ của Gã Thâm, Thương-Sinh, Dê Húc Càn. Bây giờ các cô thiếu nữ Hà-nội không còn “ xõa môi cười che dấu nửa vai ngoan” nữa (Vũ-Thành - Buồn mắt tím). Giờ thì họ cứ hiên-ngang vén môi lên mà cười cứ gọi là tồ tồ.
Lẽ ra, tôi phải kể, phải nói về Hà-nội nhiều lắm, nói mãi, nói cho đến hơi thở tàn-lụi vẫn còn muốn nói. Thế nhưng, nay tôi không còn thể nào nói được về Hà-nội của ai đó được nữa rồi. Bởi Hà-nội của tôi không còn hiện-hữu trong đời thực. Nó chỉ còn sống trong tâm-khảm, trong trí-nhớ nhỏ-nhoi của một cậu bé 11 tuổi khi bước chân lên cyclo, để ra phi-trường Gia-lâm đáp chuyến bay 4 động cơ cánh quạt vào Saigon , vào miền tự-do bao la đầy hương.
Chẳng lẽ nào mình đi Hà-nội, mà chẳng có một chút quà mọn nào sao. Đành cùng theo mọi người mà phất-phơ, mà lang-thang giữa lòng thủ-đô nước Việt-nam mà cữ ngỡ mình đang ở xứ-sở nước người. Thôi thì lấy máy ra bấm vài tấm để làm quà cho HNPĐ. Hà-nội từ ngàn xưa đã biết bao nhiêu giới lấy đó làm đề-tài. Trong đó có bậc tài-danh về nhiếp-ảnh.
Thôi, cứ chụp ẩu, chụp tả một phát. Tôi đành chụp cảnh Tháp Rùa - hồ Gươm vào ban đêm để làm quà với quý Độc-giả. Tôi xin có lời chua cho tấm ảnh này : Tháp bút chơ-vơ liễu xanh vật-vờ.
Tôi không thể nào không run tay để bấm máy những hoạt-cảnh đến não lòng của Hà-nội ngày nay. Vả lại, những sự việc đó, trên mạng trong cũng như ngoài nước đã có nhiều lắm rồi. Chẳng phải “phiền” đến tôi nữa.
Hà-nội phố xá bây giờ bẩn kinh-khủng-khiếp. Vừa đến Hà-nội trời bắt đầu đổ một cơn mưa nhẹ. Lẽ ra, Hà-nội trong mưa phải là lãng-mạn lắm … Nhưng thưa không. Nó nhếch-nhác đến độ không thể tưởng. Lấy xe ra dạo một vòng cho đỡ tốn thì-giờ. Đến khi về khách-sạn cúi xuống nhìn hai bàn chân của mình mà ngỡ rằng tôi đang đi giày cơ đấy.
Thảm chịu không được, bỏ đôi dép ra mới thấy lòi ra được một chút trắng của bàn chân, nhờ được che-chở bởi cái quai dép. Tôi xin được ngừng để khỏi phải nói những vết lở lói của Hà-nội. Những khổ-nạn mà Hà-nội phải gánh chịu.
- oOo -


Tháp chuông này xứng-đáng làm chứng-nhân cho bao thăng-trầm của lịch-sử ?!

Cửa Tùng (sông Bến-hải) đứng nhìn từ bờ Nam .

Bãi biển chạy dài từ cửa Tùng đến cửa Việt (14km) cũng xứng-đáng là một bãi biển đẹp và lớn nhất Việt-nam. Nhưng rất tiếc trời hôm ấy tuy không có mưa, nhưng rất âm-u và gió thổi mạnh làm tung bụi nước.

Con đường xưa em đi. Từ cửa Tùng đến cửa Việt.



Cửa Việt (sông Thạch-Hãn) nơi quân-sử VNCH ghi bao chiến-tích của Cọp Biển và các anh-hùng Địa-phương-quân Vùng I chiến-thuật. Đứng nhìn từ bờ Bắc. Bên kia là ngọn hải-đăng (1973 bị hư-hỏng nặng, nay trên tháp xây lại nên không thấy sự hòa-đồng của nó)




Cửa biển Nhật-lệ nhìn từ xa ( ngay tại bến phà Nhật-lệ cũ, gần phía sau của nhà thờ Tam-tòa).



CẢNH ĐỜI PHIÊU BẠT


Nhớ hồi 30 năm về trước lúc còn chân ướt chân ráo mới đến định cư tại cái xứ đất lạnh tình nồng nầy…
Mình thấy cái gì mình cũng ham hết.
Ôi thôi! nào là bơ, nào là sữa, nào là kẹo, bánh, thịt thà đủ thứ hết… sao mà nó ê hề nhiều quá xá cỡ thợ mộc.
Để bù đắp lại những ngày thèm khát thiếu thốn ngày xưa lúc miền Nam vừa đổi chủ, hầu như mỗi cuối tuần mình đều bày đặt nhậu nhẹt lu bù với anh em trong nhà hoặc với bạn bè. Tiệc tùng làm ngay trên sàn nhà nơi “phòng khách” hoặc cạnh bên nhà bếp vì toàn là dân mới qua, nghèo rớt mồng tơi. Đi làm lương tối thiểu $3.75/giờ. Ai cũng đều ở apt mướn hết. Đâu có đứa nào, kể luôn mình, có nhà có cửa riêng đâu. Rồi còn phải tằng tiện, dành dụm để mỗi 6-7 tháng có thể gởi chút đỉnh giúp đỡ gia đình bên Việt Nam .
Đồ xài trong nhà toàn là đồ của nhà thờ cho, mua rẻ từ Salvation Army, hoặc lượm ngoài đường đem về sửa lại qua loa rổi xài đỡ. Đó là thời của dân tị nạn boat people. Những năm sau nầy thì bà con mình qua theo diện đoàn tụ ODP thì khỏe hơn trăm bề.
Nhưng hồi đó lại vui. Vui vì mình biết rằng mình được TỰ DO và con cái mình sẽ có tương lai.
Thịt heo mua cả ký, để nguyên da và mỡ cho nó béo, bỏ vô nồi luộc chín, đem ra xắt mỏng cuốn bánh tráng rau sống chấm mắm nêm hay mắm ruốc ăn sao mà thấy nó ngon quá trời quá đất. Bia thì mua cả thùng cả két, uống hết chai nầy thì khui chai khác.
Thuốc hút thì mỗi ngày một gói Export A, toàn là thứ nặng không hà, rẻ mạt, hút thả cửa.
Cũng may cho cái chuyện ghiền thuốc lá. Nhớ hồi năm 81, lúc đi học lại bên nầy, sáng vô giảng đường, trong khi thầy bà đang giảng ào ào phía trên, tự nhiên thình lình mình hay bị ngứa cổ kềm hổng nổi nên phải sủa rống liên hồi như súng đại liên khạt đạn khiến thiên hạ đều phải im hết và quay đầu lại nhìn mình có vẻ khó chịu.
Quê quá trời, mất mặt thiếu điều muốn độn thổ luôn, tức mình bỏ thuốc luôn từ dạo đó. Thế mà hay.
Chè đậu nước cốt dừa, bánh trái, đồ ngọt nữa… lúc nào cũng đầy ấp cả tủ lạnh, ăn mệt nghỉ.
Đôi khi cũng đổi món cho đỡ ngán, khi thì thịt bò nhúng dấm, khi thì đổ bánh xèo hay chiên chả giò rồi hú bạn bè lại nhà làm một chầu cành hong ai nấy đều ngất ngư hết.
Có khi thì cháo vịt, có lúc thì cháo lòng.
Còn muốn cho tiện cho lẹ thì xẹt xuống phố Tàu mua bậy một con vịt quay, con gà hấp xì dầu hoặc đôi ba kí thịt heo quay và phá lấu đem về thù tạc với nhau. Hồi đó, mình khoái nhứt là mấy cái cẳng heo sữa quay, chặt khúc nho nhỏ, vừa cạp vừa gậm uống la ve chơi đã lắm.
Tuần này nhậu ở nhà mình, tuần khác thì nhậu ở nhà tụi nó.
Mùa hè thì làm barbecue, thịt gà hoặc sườn ướp sả và ngũ vị hương ngon ơi là ngon, nướng lên thơm phức cả làng cả xóm. Toàn là chuyện đớp hít không hà.
Mà cũng ngộ, lúc đó mình ăn uống thả cửa, thả giàn, chẳng cần e dè kiêng cữ gì hết như bây giờ. Cholesterol, mỡ dầu, đường, muối mình coi như nơ pa chẳng làm cho mình lo âu run sợ chút nào hết.
Mà mình cũng chẳng thèm quan tâm đến nó làm chi cho mất công.
Mình mới có 38 tuổi hà, chưa đến nỗi nào gọi là già cả. Mình đang khỏe, còn phong độ, máy còn quá ngon lành, bình còn đầy ấp, khỏi cần sạc điện, tội gì mà không hưởng thụ chút đỉnh cho nó sướng cái thân.
Không ăn để chết thành ma đói hay sao?
Mình nghĩ rằng ba cái chuyện bệnh hoạn là chuyện của người ta, của mấy ông già bà cả chớ đâu phải là chuyện của mình. Lo chi cho thêm mệt.
Ngày nay nghĩ lại thấy hết hồn hết vía…
Rồi thì hai vợ chồng phải đi học lại để mong có được một tương lai tươi sáng hơn, chớ hổng lẽ suốt đời làm lao động chân tay hoài hay sao?. Cũng may là nhờ ở cái xứ tuyết giá này, nhà nước có chánh sách nâng đỡ sinh viên nghèo khó cho nên mỗi năm mình được cấp cho vài xấp gọi là học bổng, rồi còn được quyền vay mượn loan nhà băng thêm chút đỉnh nữa để sống cầm hơi. Khi ra trường nhớ trả lại và đóng thuế luôn thể cho tiện…
Trong bốn năm dài đăng đẳng, rất căng thẳng, nhọc nhằn, khó khăn, thử thách mọi bề, trần ai lai khổ, lo sợ hổng biết mình học có nổi hay không.
Trường đại học Thú Y, nằm ở St Hyacinthe cách Montreal 45 phút xe mà thôi, nhưng hồi đó mình đâu có tiền mà mua xe. Để khỏi mất thì giờ đi lên đi xuống, mình phải mướn phòng trọ ở luôn dưới đó những ngày trong tuần. Chỉ về nhà Montreal mỗi weekend mà thôi.
Chiều chúa nhật bà xã cụ bị cho mình mấy lon thịt kho, có thêm vài cái hột gà để mình cầm cự trong suốt một tuần ở dưới đó. Có khi đổi món chiên sẵn cho 5-6 miếng sườn ướp sả thơm phức, đủ ăn trong 5 ngày. Bả dặn dò đủ thứ…
Sau đó thì mình ra Métro Longueuil, lấy bus xuống St Hyacinthe ngủ để sáng còn đi học sớm.
Mình thì khỏe hơn bà xả nhiều.
Bà xã ở Montreal , vừa đi học, và đồng thời vừa lo cho hai đứa nhỏ.
Đó là một vấn đề hết sức nan giải cho tụi nầy, và rất cực nhọc cho bà xã…
Trong suốt 4 năm dài, bả vừa phải đi học, vừa phải lo cho chồng và cũng vừa phải lo cho con. Bả thường nói giỡn là bả có chồng part time mà.
Hai đứa vừa đi học, vừa nuôi hai đứa nhỏ, nhưng cũng nhờ phước đức ông bà để lại hay nhờ may mắn gì đó nên rồi cuối cùng cũng xong chuyện đâu vào đó..
Đúng là hay không bằng hên.
Hú hồn hú vía! Hai vợ chồng đều trở lại nghề cũ của mình ngày xưa.
Mình nhảy vô chánh phủ làm nghề khám thịt cho chắc ăn. Con bốn cẳng cũng như con hai cẳng tui làm láng hết: heo nhà, heo rừng sanglier, bò nhà, bò rừng bison, ngựa, chim đa đa perdrix, chim cút caille, chim đà điểu emu, ostrich, gà ta, gà tây, vịt, thỏ, dê, cừu, hươu, nai red deer , cerf de Virginie. Nói rõ là các thú rừng vừa kể đều là những thú nuôi để lấy thịt.
Hổng có con nào sau khi gặp tui tại lò sát sinh mà còn sống được hết.
Khi ra trường vì cần có việc làm ngay để nuôi vợ con nên tui chấp nhân đi xa. Tháng 6, 1985 vừa lãnh bằng Bs Thú y xong hồi trưa thì 6.30 pm chiều hôm đó tui lấy xe lửa Via Rail dông tuốt xuống Moncton thuộc tỉnh bang New Brunswick, cách Montreal gần 1,000 km để trình diện Regional Office Agriculture Canada vùng Maritime. Họ cho tui hai tuần để làm orientation và thu xếp nơi ăn chốn ở. Xong xuôi tui mới quay về Montreal đem vợ con xuống. Thế là tôi bắt đầu đi làm thật sự lúc 42 tuổi.
Rồi phải học lái xe, rồi phải gấp rút mua một chiếc xế hộp, mới có đi làm được. Vấn đề là từ trước tới giờ tui chưa từng cầm volant lần nào cả. Học lấy bằng thì dễ nhưng khi chính mình cầm tay lái thật sự thì khác. Lo quá.
Lấy cái xe Toyota Tercel Hatchback mới toanh về nhà dợt sơ sơ quanh xóm chừng đâu hai ba bữa thì phải lái đi làm xa. Phải đối đầu với đường cao tốc expressway, với xa lộ và bắt buộc chạy cho lẹ, cho nhanh như mọi người. Sợ lắm thiếu điều…
Trong hai năm đầu làm việc, tui lôi vợ con đi theo tui trên bước đường sương gió khắp các tỉnh bang New Brunswick , Nova Scotia và PEI thuộc vùng duyên hải phía Đông Canada . Ở vùng nầy, người Việt định cư ít lắm. Mua nước mắm hay đồ ăn VN phải lái xe đi qua thành phố Halifax, bên tỉnh bang Nova Scotia cách chổ tui ở 200km mới có, bất tiện quá.
Sau hai năm, tui làm đơn xin đổi về tỉnh bang Québec nơi có nhiều đồng hương VN định cư, vui hơn thấy bớt lẻ loi hơn và nhứt là tiện cho bà xã dễ hành nghề và thuận lợi cho con cái học hành sau nầy.
Tại Quebec tui làm bất kể giờ giấc để gom bạc cắc. Thường, mùa hè cũng như mùa đông, 5.30 sáng là phải ra khỏi nhà vì 6.30 là nhà máy khởi sự cho chạy khi đã có sự hiện diện của thú y sĩ. Đó là luật.
Chổ nào hơi hắc ám, inspector da trắng chê là có tui nhận, chổ nào cần tui thì tui có đó, chổ nào khó là có tui đây. Cũng nhờ khi hồi mới đi làm năm 85, Agriculture Canada đã cho tui theo khóa huấn luyện nghiệp vụ đặc biệt, nhờ vậy mình trở nên polyvalent, đa năng, trúng con gì mình cũng làm được hết. Mấy lớp hậu sinh sau này, vì hạn chế ngân sách, nên tân thú ý sĩ được huấn luyện ít hơn hồi tôi bắt đầu đi làm năm 85.
Ban ngày làm, chiều thiếu người, tui tình nguyện ở lại làm luôn ca tối nữa để có tiền ô quờ thêm overtime. Đôi khi thứ bảy cuối tuần, nhà máy làm thêm ca bất thường. Mấy thằng bạn da trắng từ chối đi làm vì weekend phải ở nhà hú hí với vợ con. Tui nhảy vào vô lông te thế chổ, xếp tui mừng lắm, cám ơn tui lia lịa mẹt xi bổ cu đốc tơ Chánh. Còn tui thì cũng mừng thầm vì mình có cơ hội kiếm thêm chút cháo để dành lo hậu sự… Có cái hơi đau là tiền phụ trội bị trừ thuế hết 50%.
Thôi thà có ít còn hơn không, tham quá hổng tốt.
Tụi bạn bè đồng nghiệp nó thường hỏi tui theo đạo gì thì tui hổng ngần ngại trả lời rằng tui theo đạo Dollarisme. Tụi nó có vẻ hơi ngẩn ngơ hổng hiểu tui muốn nói cái gì.
Còn phần má bầy trẻ của tui thì trở lại nghề bán thuốc Tây, thuốc nhức đầu, thuốc tránh thai, thuốc thử thai… thứ gì cũng có. Phương châm: vui lòng khách đến vừa lòng khách đi (còn trở lại!).
Tội nghiệp bà xã bán có một mình, rất cực, rất căng thẳng tinh thần vì đôi khi gặp phải khách khó tánh, hoặc bị cướp hold up bất cứ lúc nào. Mấy năm đầu đã bị tụi nó vô chỉa dao, chỉa súng biểu đưa thuốc… phê loại narcotic. Trước khi vọt tụi nó không quên vét cái két được thêm vài ba chục đô mà hổng biết nói một tiếng mẹt xi nào cả. Đồ bất lương vô giáo dục hết sức!
Mỗi ngày, chiều trên đường về,tui tạt qua tiệm và chờ lệnh bà chủ để đi giao thuốc cho khách hàng.
Rồi 7-8 giờ tối hai vợ chồng mỗi người lái một xe, người chạy trước người theo sau về nhà cùng một lúc. Mệt đừ, phờ người, thở ra khói.
Thôi, như vậy cũng được! Đó là chuyện đời xưa.
Nay thì hai đứa tụi tui đã expired, quá date, thấm đòn rồi nên đã nghỉ hưu kẻo hổng còn kịp nữa.




Nghỉ hưu sướng hay khổ
Lối năm 1995 gì đó, bên này có phong trào karaoke mà có người còn gọi là ca ra thì ô kê, bà xã xúi tui tham gia cho vui với người ta, chớ ở nhà ra vô gặp mặt nhau hoài sinh bực bội, xẹt điện lên và dám xực nhau bất tử lắm, mà toàn là chuyện gì đâu lãng xẹt lãng nhách không hà…
Thú thiệt với các bạn là từ hồi cha sanh mẹ đẻ tới giờ, tui nào có biết hát xướng gì đâu. Thôi thì cũng được, Vợ là nhứt, biểu sao thì tui nghe vậy cho nó yên vì sách có câu “nhứt Vợ, nhì Trời, thứ ba là Em vợ” phải không các ông anh?
Nói chung bọn già tụi mình thuộc thế hệ thứ nhứt nhờ biết sống theo sách nên ít khi có đổ vỡ. Đó là bí quyết để giữ vững “hạnh phúc gia đình”. Lớp nhỏ sau nầy, dễ bỏ nhau vì tụi nó hổng có chịu bắt chước theo tía má của chúng. Mà hổng biết mình đúng hay tụi nhỏ đúng?
Cuối tuần, hễ có bạn bè nào hú là tui chở bả đi liền bất kể mưa gió bão bùng hay tuyết rơi ngập lối. Có lẽ nhờ tánh như vậy nên bả thương tui lắm chưa dám buông tui ra sợ người khác lượm.
Hồi tui vừa mới ra trường học đại năm 1967 ở Sài Gòn, còn con trai nheo nhẽo và mới có 24 tuổi, chưa có vợ con gì hết, một thầy tử vi khá nổi tiếng ở miệt Cầu Ông Lãnh có nói là cung cư thê của tui đóng nơi cung mạng. Hình như đây là bửu bối chung của các thầy, hể khách là đàn ông thì cứ phán là có cung cư thê, còn nếu khách là đàn bà thì cho rằng số cô tốt lắm, đó là vượng phu ích tử, sanh con đầu lòng hổng gái thì trai chắc chắn là các bà mừng lắm.
Thầy còn cắt nghĩa đó là lá số rất tốt, cậu mà có cung cư thê ở mạng thì sung sướng lắm, khỏe lắm khỏi lo gì hết. Mọi chuyện mọi thứ được vợ nắm, vợ lo hết còn hơn cả mẹ lo cho con nữa, duy chỉ có một trở ngại nho nhỏ là thỉnh thoảng phải chịu nhức nhối cái lỗ tai một chút. Mà cũng hổng sao. Ai lo thì người đó mệt, miễn sao tui “phẻ” là được rồi.
Ngược lại, bạn bè tui thì le lưỡi và tụi nó có vẻ lo ngại dùm cho tui. Tụi nó còn nói là tui tới số, đời tui kể như tiêu tán đường rồi.
Mà lạ thiệt, ngày nay ngẫm nghĩ lại thì hình như phần đông bạn bè của tui đứa nào đứa nấy cũng đều có cái số giống như tui hết ráo hết trọi chớ đâu phải chỉ riêng có mỗi một mình tui thôi sao đâu… Ai cũng vậy mà thôi. Tui cảm thấy được an ủi phần nào!.
Tui lại đoán mò đại là có lẽ đa số 75% đàn ông có vợ, kể luôn Tây trắng, Tây đen, Mẽo, Mễ, Tàu, đều có số cung cư thê hết ráo hết trọi.
Mà tui cũng hên ghê mới có được một bà xã tuyệt điệu như vậy, biết lo trong lo ngoài nhờ vậy cuộc đời tui cũng đỡ khổ phần nào, nếu không thì nát bét hết… vì nói xin lỗi với bạn hiền, tánh tui thích tà tà, lè phè cho nó sướng tấm thân. Ai cười, tui xin chịu.
Nhớ hồi những năm 78-79, lúc cuộc đời hai đứa đang trên đà xuống dốc thảm thương vì những chuyến vượt biên bất thành, hết hai lần nằm khám, thì từ ngôi vị một chủ nhân và đúng theo chủ trương lao động là vinh quang, lang thang là chết đói hay nói là ủ tờ của nhà nước, bà xã tui đã can đảm nhảy phóc xuống một cách tỉnh bơ làm một cô bán xôi, bán cà phê (hổng phải cà phê ôm đâu) trên vỉa hè sát bên tiệm thuốc Tây cũ của mình mà lúc bấy giờ thì nó đã lọt vào tay người khác.
Cũng có nhiều lúc, phường khóm cũng gởi tụi cách mạng 30 đến dò la tư tưởng, nói xa nói gần chẳng hạn như sao chị là dược sĩ mà hổng chịu xin đi làm trong ngành nghề của mình mà lại đi bán cà phê làm chi cho phí cuộc đời. Đó, dân miền Nam là như thế đó, hoàn cảnh nào cũng sống được hết, hổng cần phải cầu cạnh xin xỏ ai hết. Lao động trí óc làm được, lúc cần thì thì lao động chân tay cũng coi như pha chẳng nhầm nhò gì hết.
Nghề bán xôi cũng được bả đem theo qua Thái Lan trong thời gian tạm cư tại trại tị nạn Laem Sing. Sau nầy có mấy người bạn đã gặp lại tụi nầy ở bên đây và họ có nhắc lại chuyện hồi năm xửa năm xưa lúc còn ở trại tị nạn, mỗi sáng họ mua xôi vì tội nghiệp, thương hại và cũng vì muốn ủng hộ giúp đỡ vợ chồng tụi nầy, “chớ xôi của chị nấu ăn sao nhão nhoẹt, có khi thì khen khét, có khi thì xừng xực sống nhăn, ăn vừa ngán ngược, vừa nuốt không vô chán thấy mẹ”.
Mà họ nói cũng đúng thôi, vì có đủ củi lửa đâu mà nấu cho chín cho ngon được. Có khi đang nấu ngoài sân thì trời lại trút mưa xuống bất tử, củi lửa ướt mẹ nó hết, khiên nồi vô ra ba lần bốn lược thì làm sao mà xôi chín cho được.
Khi lên đến trại Thái Lan thì mình không còn một chỉ, hay một đồng xu dính túi vì bị mấy thằng hải tặc chiếu cố quá kỹ lúc còn lênh đênh ngoài biển.
Nhờ bà xã chịu khó tảo tần như thế nên mỗi ngày mình mới có chút tiền còm để mua vài thùng nước tắm cho hai đứa nhỏ, cũng như để mình mới có thể ngồi quán cóc bà Nòi gần cổng trại mà nhâm nhi ly cà phê đắng, phì phà điếu Samit và dệt mộng cho tương lai…
Thầy bói lần vách đoán mò nhưng sao đúng quá, có vợ cũng đỡ thiệt hé.
Xin cám ơn má xấp nhỏ một cái nghe cưng!
Vợ chồng già như bình rượu hiếm, như gừng già càng già càng cay. Rượu vang càng cũ thì càng quý có phải vậy không các ông anh?
Coi vậy mà tui đã đụng bả được hơn 35 năm rồi… 35 năm mặn nồng sương gió, vui buồn, thăng trầm sướng khổ đều có nhau.
Một hai năm nữa thì hai đứa sẽ bước vào ngưỡng cửa của tuổi thất thập cổ lai hy.
Không biết mình có còn đủ sức để có thể tiếp tục đi nốt đoạn đời còn lại hay không?
Dòng thời gian lặng lẽ trôi qua trong một kiếp người. Lẹ thiệt!
Sau đó thì phong trào karaoke tàn rụi và được thay thế bằng phong trào keyboard, có nghĩa là nhạc sống có nhạc sĩ đờn cho “ca sĩ” hát. Có một cái ngồ ngộ là phần đông các “ca sĩ” đều sồn sồn và đã lên chức bà hết ráo, bà ngoại, bà nội hay là bà “mộng chè” gì đó. Các buổi văn nghệ thường được tổ chức ở nhà hàng Tàu. Trước là ăn nhậu đớp hít, sau là ca hát và nhảy nhót cho giãn gân giãn cốt cho khỏe và cũng có lẽ là để níu kéo lại thời gian.
Đây là một sắc thái văn nghệ đặc biệt của một nhóm người có tuổi và vui đời ở Montreal . Hát cho vui, cho đời thêm hương, cho quên phiền muộn và nhất là để quên mình già. Có bạn còn gọi nhóm người nầy là nhóm YAMAHA.
Đây cũng là dịp để các bà các chị ăn diện ỏn a ỏn ẻn làm đẹp trước mọi người. Trên sân khấu ai hát thì cứ việc hát, còn phía dưới thì từng cặp ôm nhau xà nẹo, lã lướt theo nhịp điệu Tango, khi thì rầm rập bước tới bước lui theo nhịp điệu Cha Cha Cha và đôi khi thì rất cuồng nhiệt cà giựt cà giựt uốn éo theo nhịp Twist, Disco hay Techno v.v… Chịu chơi hết cỡ không thua gì bọn trẻ.
Có cái ngộ cần nói thêm là ít khi thấy các cháu tham dự với tía má hoặc với các bác các chú của chúng nó. Ở các bàn thì thiên hạ cứ tự nhiên ăn uống nói chuyện rần rần rào rào rất ư là vui vẻ.
Mỗi lần bà xã tui bước lên sân khấu thì tui biết bả run lắm và bụng chắc đánh lô tô loạn xạ, còn tui cũng hổng khá hơn gì. Tui thầm vái ông Địa cho bả hát cho suôn sẻ và đừng có thé lên, đừng có tắc tiếng, đừng có hát trật đường rầy bất tử quê xệ mất mặt bầu cua lắm. Bả hát được thì tui mừng hết lớn. Bả vừa hát xong là tui thở một cái phào nhẹ nhõm.
Các bà có vui thì các ông mới đỡ khổ!
Nhìn ngắm các bà chị duyên dáng trong những tà áo dài sặc sỡ, thước tha, dịu dàng như những cô gái đôi mươi lòng tui cũng thấy tươi mát lại được đôi chút.
Những lúc rảnh rỗi, tui thường viết báo chùa, dạy khôn thiên hạ về cách ăn uống sao cho đúng phép dưỡng sinh. Tui chỉ cóp lại những gì các nhà khoa học đã nói thôi. Nói tóm lại, tui chỉ là người đọc báo dùm các bạn mà thôi.
Tui không bao giờ có ý định hù mọi người đâu.Tui chỉ muốn chia sẻ tin tức và các hiểu biết khoa học với các bạn mà thôi.
Chắc có bạn nghĩ rằng là tui ngon lành lắm sao? Lầm to, tui cũng như các bạn mà thôi.
Có bạn còn trách tui “đọc các bài ông Chánh viết riết rồi mình không dám ăn cái gì hết”. Ối cha! thật là oan cho tui hết sức.
Trong những buổi tiệc, có bạn còn cắc cớ rình rập coi tui ăn những gì không đúng như lời tôi viết để bắt giò bắt cẳng, để sửa lưng tôi chơi. Có bạn còn cắc cớ hỏi tui làm việc trong ngành khám thịt chắc là ăn thịt dữ lắm !?? Khổ tui lắm! Xin tha cho tui nhờ, bên nầy là Montreal Canada , chớ hổng phải Lò Mỗ Vissan Sài Gòn đâu.
Tui cũng sợ bệnh sợ chết như mọi người vậy, nhưng với những món khoái khẩu đôi khi tui cũng không nhịn thèm được.

Chết có thật đáng sợ hay không
Tại nhà hàng, bộ tui ngu sao, đóng tiền mà hổng ăn, lỗ vốn sao?
Nhưng tui ăn, tui uống có chừng có mực theo điều kiện sức khỏe của mình.
Nói chơi, vây thôi chớ quý cụ nào đang bị cao máu, cholesterol cao, bị bệnh đái đường nặng thì đừng có bắt chước theo tui rủi có đứt bóng bất tử bỏ vợ con lại tội nghiệp người ta lắm!
Bà xã tui thường hay mỉa mai là coi chừng biết đâu anh dám ngõm trước người ta lắm, ở đó mà làm thầy đời thiên hạ. Tui cũng không biết sao mà trả lời trả vốn với bả được. Chuyện nầy trời kêu ai nấy dạ chớ biết đâu mà rờ.
Tuy nói vậy, nhưng đôi khi bả cũng là người hợp tác ít nhiều với tôi trong vấn đề viết lách nầy nọ…
Chúng ta đều cùng chung một hoàn cảnh ly hương cả. Đã nếm đủ thứ mùi đời rồi, cũng ba chìm bảy nổi tám cái linh đinh trong cuộc sống.
Ai cũng dã sống được 6-7 chục năm rồi và nếu Trời còn thương, nhìn tới thì mình chỉ còn cao tay lắm là 10-20 năm nữa rồi cũng phải đi theo ông theo bà mà thôi.
Có ai dám tự hào là mình chưa thấm đòn đâu!
Lục phủ ngũ tạng đều có vấn đề hết ráo hết trọi. Mắt mờ, tai lãng. Cái gì cũng tóp lại, cũng nhăn nheo. Đầu thì bạc phếu, tóc tai lưa thưa như đồng khô cỏ cháy, tàn nhang đồi mồi nổi lên khắp nơi. Răng cỏ cái còn cái mất, ba xí ba tú, nên khi ăn phải đeo phụ tùng vô mới nhai được thật là bất tiện. Có thứ thì xệ xuống, có thứ thì teo lại, nhão nhe nhão nhoẹt thấy mà phát chán.
Có thứ mình muốn nó tăng thì nó giảm, cái muốn giảm thì nó lại tăng.
Nhưng nghĩ đi nghĩ lại cũng đúng theo lẽ thường tình, luật của tạo hóa. Mình phải đi để nhường chổ cho người khác sống chớ!
Ở vào cái lớp tuổi 60 ai mà không có vấn đề sức khoẻ nầy nọ, không đường cao thì cũng có mỡ cao, máu không cao thì cũng phải có đau chỗ nầy nhức chỗ nọ. Lực bất tùng tâm. Lúc vầy lúc khác, tâm tánh biến đổi bất thường, người ta nói già khó hiểu hay sanh tật là vậy đó. Khoa học thì họ nói đó là do ảnh hưởng của tình trạng mãn dục andropause ở các ông. Ông mãn dục sống chung với bà mãn kinh ménopause thì còn gì hơn nữa được. Đầu óc thì quên trước nhớ sau, để đâu quên đó, lơ thơ lẩn thẩn, lẩm ca lẩm cẩm, nói đi nói lại, lải nhải tối ngày, có khi muốn được yên thân thì tịnh khẩu đếch muốn nói chuyện… cho bỏ ghét.
Đôi khi mình có cái xác mà như không có cái hồn, chẳng hạn đang khi lái xe ngon lành, thấy đèn xanh thì mắc chứng gì mình thắng lại cái rụp, còn đèn đỏ thì mình lại chạy phon phon tỉnh queo sau đó mới hết hồn hết vía. May phước cho mình là lúc đó không có phú lích cũng như không trúng nhầm những ngã tư đèn xanh đèn dỏ có gắn camera tự động chụp hình xe vi phạm. Quê quá!
Tình trạng nầy càng dễ xảy ra nếu có thêm tài xế phụ ngồi kế bên. Lỗ tai không ngừng phải nghe “còm măn te” về đủ thứ chuyện trên trời dưới đất và luôn cả về cách lái xe của mình nữa. Đầu óc mình bị quay cuồn, có mắt nhưng cũng như mù, không còn tỉnh táo được nữa, chỉ nghe lùng bùng trong lổ tai, hổn loạn trong đầu, trong óc, nên chẳng còn biết, còn hiểu con mẹ gì hết.
Đầu óc mình chỉ program để có thể làm mỗi lần một việc mà thôi. Rồi còn phải tìm cách đối phó chuyện nầy, giải quyết chuyện nọ, chuyện con, chuyện cái và cả chuyện bệnh chuyện hoạn, v.v… tùm lum tà la. Ôi thôi mệt lắm bà con cô bác ơi!

Đàn ông và Đàn bà.
Có nhiều người bạn của mình đã thăng rồi vì bệnh ung thư hay tai biến mạch máu não v.v… Nhiều người khác thì rét quá và có lẽ buồn đời, buồn vợ buồn con nên bắt đầu lo tu mà quên cả sống kiếp nầy, lo thiền để chuẩn bị cho kiếp mai sau hoặc để cho “chuyến đi” sắp tới của mình được dễ dàng thanh thản hơn?
Ai cũng đã có vé đi về cả rồi và chỉ cần điền thêm ngày tháng vào là xong.
Riêng tui thì vẫn còn… ham vui, còn nặng mùi trần gian thế tục và có lẽ vì căn duyên chưa tới nên chưa tu, chưa làm như họ được.
Mỗi một năm sống thêm được một tuổi là mừng thêm một năm bonus mà Trời, Phật, Chúa, Mahomed, Allah, đã ban tặng cho mình.
Thôi thì số mình ra sao thì mình phải chịu như vậy. Than thân trách phận cũng chẳng đi đến đâu. Cứ vui sống với phút giây hiện tại. Sống từng ngày một. Nhưng tui biết là tui không còn được như hồi ba bốn chục năm về trước nữa, mình đang lê bước trong giai đoạn cuối cùng của cuộc đời.


Hôm qua, hôm nay, ngày mai.
Đó là sự thật!. Sanh, lão, bệnh, tử không ai có thể tránh khỏi được hết!
Nhưng có một điều chắc chắn là mình có thể cải thiện được sức khỏe bằng cách… ăn uống cho cẩn thận, điều độ.
Năng hoạt động, tập thể dục, đi bộ, tập Tài Chi, khí công, aerobic, yoga, bớt rượu, bỏ thuốc, bớt café, sống chừng mực, biết tha thứ, không cố chấp, biết buông xả bớt, nên quẳng gánh lo đi và vui sống với tất cả mọi người cũng như với con với cháu…


Giả từ cô đơn
Dòng thời gian lặng lẽ trôi qua. Lẹ thiệt!
Mới đây mà mình đã xa rời quê hương được 30 năm rồi,… 30 năm thật sự sống trong không khí tự do trên một đất nước Canada rộng lớn đầy lòng nhân ái, một đất tạm dung cho hằng triệu người khốn khổ đến từ khắp các miền đau thương trên thế giới.
Đất lành chim đậu
Tre tàn thì măng mọc.
Hai đứa con của tui nay đã lớn khôn, tự lập và đã tung cánh tự bay được rồi.
Và thế hệ thứ ba đang tiếp nối…

Hội chứng trống ổ
Mình đã đạt được ước nguyện và rất tự hào là một thuyền nhân, một boat people, chứng nhân một giai đoạn đau thương của lịch sử Việt Nam .
Giờ đây, nhà chỉ còn hai vợ chồng sớm tối hủ hỉ bên nhau và tay trong tay, hai ta cùng chậm bước trong cảnh đời phiêu bạt để mà cùng già bên nhau./.

Thuyền nhân Nguyễn Thượng Chánh


Montreal , tháng tư, 2010

Tuesday, May 11, 2010

30-4: Nhìn Lại! Nhìn Lại! Nhìn Lại Nữa!








Tác giả: Anne Khánh Vân


Tác giả đã nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2007. Sinh năm 1974 tại Saigon, tốt nghiệp kinh tế tại Pháp, Anne Khánh Vân hiện sống tại Virginia và làm việc cho AECOM, một trong 500 đại công ty hàng đầu thế giới theo Fortune xếp hạng. Bài sau đây được tác giả ghi “Viết cho tất cả những người cha từng ở tù, những người mẹ từng thay chồng nuôi con tại miền Nam sau 30 tháng Tư.” Bài này được viết riêng cho Nội San Ái Hữu Đơn Vị 101, một đơn vị ngành an ninh VNCH trước 1975, đồng thời góp thêm cho giải thưởng Viết Về Nước Mỹ.

***

Thưa các chú bác 101,
Con được đến với Nội San Ái Hữu Đơn Vị 101 là nhờ bác Lê Trị.
Năm trước, tháng Tám 2009, Việt Báo Online phổ biến bài "Chuyện Nước Mỹ, Chuyện Việt Nam" của Anne Khánh Vân, kể chuyện tổng thống Obama mời hai thường dân vào Nhà Trắng để... cụng bia. Bác Trị ra công copy bài này gửi các đồng đội cũ mời đọc. Thương làm sao lời giới thiệu của bác, "Anne Khánh Vân là cháu của Lê Trị..."
Mới đây, con nhận thêm email, "Chú là Bảo Trâm, bạn của chú Lê Trị, hiện phụ trách biên tập Nội San Hội Ái Hữu Đơn Vị 101. Được biết Anne Khánh Vân đã hứa trước nên chú gởi thư này xin Anne viết riêng một bài cho Nội San Hội Ái Hữu Đơn Vị 101, dự trù ra mắt trong dịp 30 tháng Tư."
Đúng là khi được bác Lê Trị biểu viết bài cho nội san 101, con đã mau mắn "dạ dạ", dù chưa biết mình sẽ viết lách ra sao. Bây giờ, nhờ email chú Bảo Trâm nhắc tới ngày 30 tháng Tư, con bỗng "ngộ" ra nhiều điều bất ngờ.
Con cám ơn chú Bảo Trâm nhắc bài.
Con biết ơn các chú bác 101 đã ưu ái, tin cậy, cho con cơ hội để... cà kê dê ngỗng.
Xin bắt đầu ngay bằng chuyện cha mẹ chú bác mình. "Hồi đó,... Hồi xưa..."

*
Khi Saigon còn là thủ đô của miền Nam, có chàng học trò nghèo -con côi mẹ goá- được một gia đình bố mẹ nuôi người Mỹ từ Hoa Kỳ giúp ăn học và sẵn sàng bảo trợ du học. Chính chàng quyết định hoãn việc xin du học, ở lại để... lấy vợ, rồi sinh con. Đứa con đầu lòng ấy là... con, Anne Khánh Vân, chỉ mới 6 tháng tuổi khi Saigon hấp hối.
Tháng Tư năm 1975, ba con đang làm việc với người Mỹ trong căn cứ không quân Tân Sơn Nhất. Ứng trực ngay tại nơi lên lịch những chuyến bay di tản, ông có sẵn chỗ trên máy bay cho cả gia đình, lại có sẵn bố mẹ nuôi người Mỹ bảo trợ, nhưng không thể liên lạc với vợ con. Phút cuối, chính ông quyết định... rời khỏi máy bay, vất vả để ra khỏi phi trường, về nhà. Mọi chuyện lỡ làng. Chiều 30 tháng Tư, ông cùng mẹ và vợ đốt hết giấy tờ hình ảnh liên hệ đến người Mỹ. Và sau đó, đi tù. Rồi trăm cay nghìn đắng...
"Má à, sao Ba không đi Mỹ như các chú các bác?"
"Còn vì sao nữa. Hỏi ba mày đi."
"Con muốn có ba đi Mỹ để gửi quà về nhà hay muốn có ba ở bên con?"
Con đã hỏi má, hỏi ba, rồi ba hỏi lại con, sau khi đã kể lại chuyện cũ.
Thì ra vì không nỡ bỏ rơi con, ba con đã quyết định ở lại. Nhờ điều này, suốt thời thơ ấu, dù cơ cực thua kém chúng bạn, con vẫn có thể hất mặt lên, hãnh diện nhớ ngày 30 Tháng Tư. Ngày ấy, với ba, không phải ai khác mà chính con là... V.I.P. - nhân vật quan trọng nhất. Từ đó, đây là ngày để yêu quí ba hơn. Con nhớ mình đã hiểu như vậy khi mới chín, mười tuổi.
Cũng từ tuổi này, con nghe nhắc tên bác Lê Trị. Chỉ nghe nhắc tên thôi. Chưa thể gặp mặt. Vì lúc ấy bác Trị cũng như nhiều bậc cha chú khác của chúng con vẫn đang còn trong tù.
Bác Trị gái và má con vừa là bạn thân, cũng vừa là bạn hàng... chợ trời. Không biết má con, bác Trị gái, hay trăm ngàn các bà vợ, bà mẹ miền Nam khác trước kia từng sống với những công việc ngành nghề tốt đẹp, sung túc ra sao, nhưng những năm cuối 70 và đầu 80, con thấy nhà nhà đều có cảnh "chà đồ nhôm, chôm đồ nhà" mang ra hè đường bán. Sau màn "tư bản mại sản" -có nghĩa là bán hết những gì có thể bán trong nhà- các bà vẫn phải tiếp tục mua bán cái gì đó mỗi ngày, để có khoai có gạo nuôi con, rồi nuôi chồng trong tù.
Vậy là tại chợ trời Tân Bình, má con có cái sạp bán quần áo. Bác Trị gái thì vòng vòng khắp chợ lựa đồ cũ để mua đi bán lại. Mua được cái quần cái áo nào khá khá thì bác đem cho má con lựa trước. Chiều đi bán về, má con sẽ giặt giũ mớ quần áo cũ mua được trong ngày. Hôm sau, khi mớ quần áo cũ này được phơi khô, con có bổn phận tháo tung chúng ra thành những manh vải nhỏ, ủi cho thẳng thớm. Tối đến, khi đã cơm nước và lo cho các em xong, má con sẽ vừa đọc chính tả cho con viết, hoặc dạy con làm toán và vừa cắt đồ. Những mảnh "vải" do con "chế biến" từ đồ cũ hôm qua sẽ được má cắt thành những bộ đồ trẻ con, những chiếc áo sơ mi, áo bà ba... Sáng sớm, má con ra chợ bán. Phần con, trong khi đạp xe mi-ni lọc cọc đến trường, con sẽ ghé ngang nhà các cô thợ may, đưa họ mớ đồ má con cắt tối qua. Trưa tan học, con ghé nhà các cô lấy những gì các cô may xong. Về nhà kết nút áo, luồn thun, hoặc luông lai áo. Khi xong việc, con sẽ mang mớ đồ "cũ hôm qua nhưng mới hôm nay" này ra chợ "tiếp tế" cho má con có thêm "đồ mới" bày bán. Cứ như thế, từng ngày trôi qua... Chợ Tân Bình là nơi kiếm sống của gia đình con, cũng như trăm ngàn gia đình khác. Và chính nơi đây, con đã được biết bác Trị gái.
Những khi con ra chợ phụ má, má con thường sai con chạy qua chỗ bác Trị gái ngồi để đưa tiền và có khi là xin khất sang ngày mai. Bác Trị gái sẽ cười và gật đầu, "Ừa, không sao đâu." Hai bà mẹ thương nhau như chị em; họ cùng "nín thở" nương nhau qua sông... Con còn nhớ rõ chỗ bác Trị gái ngồi là gần bên cô Phúc bán cà-phê có cái bàn thấp thấp. Chỉ là một tấm ni-lon trải trên thềm xi-măng. Trước kia má con cũng toàn trải ni-lon bày bán hàng dưới đất ngay trên đường vào chợ. Trước đó nữa, khi con mới hai ba tuổi, theo má bán chợ trời ở chợ Long Khánh, thì đường vào chợ cũng đâu có chỗ. Phải trải tấm ni-lông bên cạnh những đống rác ở sau chợ... Nắng mưa, ruồi nhặng, lầy lội gì cũng phải bám lấy nó. Mãi sau này, nhờ "hụi sống hụi chết," má con chắt chiu đủ tiền sang được cái sạp lộ thiên phía sau lồng chợ. Biết cảnh ngồi dưới đất mưa nắng ra sao, nên khi thấy bác Trị gái phải ngồi như thế, con ái ngại hỏi má, "Ủa má, sao bác không ngồi sạp bán hàng như má?" Má con giải thích "Bác đi mua đồ cũ vòng vòng trong chợ suốt ngày, rồi lại đi vòng vòng bán lại với chút tiền lời... Nếu chiều tới mà còn nhiều thứ cần bán thì bác mới trải tấm nhựa ngồi ráng chút thôi."
Có ngày không thấy bác Trị gái ra chợ, con hỏi thăm. Má con nói bác phải đi thăm nuôi bác trai. Đã nhiều lần thấy má và các cô dì của con người nào cũng từng "đi thăm nuôi", con không ngạc nhiên vì điều này. Nhưng vẫn chưa hiểu vì sao mà mấy ông chú bác này nhà có không ở, cứ "rủ nhau" vô tù. Cũng chẳng thể hình dung nơi họ ở tù như thế nào.
Cho tới khi chính con cũng đi vô... nhà tù.
Vào mùa hè khi con gần mười tuổi, con được má cho theo cậu dì đi vượt biển. Hên xui may rủi thế nào không hiểu, chuyến tàu bị bắt, cả đám "thuyền nhân hụt" bị tống vô nhà tù. Vậy là con cũng đi tù (như ai!). À, đây là nhà tù, là trại cải tạo. Ồ, kia có thể chính là bác Lê Trị. Con chưa biết mặt bác, không biết bác ở nhà tù nào, nhưng con đã nghĩ vậy khi thấy những người tù cải tạo ốm yếu, tơi tả, đi từng đoàn dài, hoặc làm đủ mọi thứ việc khổ sai dưới mưa nắng và những họng súng canh gác của cai tù được gọi là cán bộ quản chế, quản giáo. Ba con, chú bác con từng là những người tù như vậy.
Thật ra hồi nhỏ, con cũng chẳng hiểu tại sao đi vượt biên mà không thoát thì sẽ đi vô tù. Có trộm cướp gì đâu. Có đánh phá ai đâu. Chỉ "đi chỗ khác chơi" thôi, có gì đâu mà tù.

*
Mấy năm sau đó, Việt Nam có chính sách "đổi mới" - cầu cứu tư bản, nói chuyện lại với Mỹ. Nhiều chú bác từ nhà tù trở về và con đã có dịp chào bác Lê Trị. Lúc này, các bà vợ bà mẹ "gốc ngụy" có chồng về "phụ việc" thấy cũng đỡ hơn. Má con đã mở được một tiệm may và dạy nghề may. Má con vốn là nhà giáo. Nhờ thừa hưởng từ bà nội là thầy dạy may giỏi, nên má con dạy may vá cũng giỏi. Bác Trị gái cho mấy chị qua phụ may với má con để học thêm. Gia đình bác đang chờ làm thủ tục đi Mỹ, nghề may biết đâu sẽ có ích cho các chị.
Chơi thân với mấy chị con bác Trị, mỗi lần qua lại, con thấy trong nhà bác có rất nhiều tủ kệ mới rất đẹp do bác Trị trai tự tay đóng. Vài năm sau, khi gia đình bác Trị có vé máy bay đi Mỹ, hai bác đã "chia gia tài" cho những bạn nghèo còn ở lại, trong đó có gia đình con. Con còn nhớ sáng hôm ấy, chị Duyên, thứ nữ của hai bác, đưa chiếc xe ba bánh chở một bàn may qua nhà con. Khiêng bàn may vào nhà, chị Duyên nói, "Ba má con gửi tặng cô." Hình dáng bàn may này trông hơi "khác thường" vì là "sản phẩm... chế biến" của bác Trị. Nó được đóng bằng thứ gỗ rất dầy và chắc. Gắn đầu máy vào và ngồi may, trông rất oai.
Vì bác Trị ở tù đến 13 năm nên gia đình bác được đi Mỹ theo diện HO. Ba con không ở tù lâu, nhưng có lẽ vì được con ở tù thêm cho phần ba, nên trời thương, cũng cho con được đi... Mỹ. Con đường đến Mỹ tuy vòng vo, ngoằn ngoèo, nhưng cuối cùng con cũng đã đến nơi.
Tạm yên việc học, việc làm, chiều tháng Tư, một mình ngồi bên dòng sông Potomac đúng mùa hoa anh đào nở, con bỗng lờ mờ thấy lại đống lửa hỏa thiêu lý lịch chiều 30 tháng Tư năm nào, khi vì con mà Ba bỏ chỗ trên chuyến bay di tản. Con nhớ ba, nhớ má, nhớ bà Nội, nhớ các em, nhớ cả hình ảnh ông bà bố nuôi người Mỹ của ba con. Trong album gia đình, hiện vẫn còn tấm hình ông bà - được lượm lại từ đống lửa hoả thiêu. Tên tuổi địa chỉ không còn nữa. Không biết ông bà ở nơi nào, cõi nào. Nhưng từ tấm ảnh cũ một phần bị nám cháy, con vẫn hình dung được là ông bà bố nuôi của ba con đang cười, khi biết là cái con bé làm lỡ chuyến bay của ba nó năm xưa, nay đã thay ba đến được với nước Mỹ.
Chính từ những ký ức lu bù ấy, con đã viết "30 Tháng Tư, Ngày Để Yêu Quí Ba Hơn", rồi viết thêm "Duyên Nợ Với Nước Mỹ". Cả hai bài được gửi dự Viết Về Nước Mỹ, một giải thưởng đặc biệt do hệ thống Việt Báo tổ chức liên tục từ mười năm nay; các giải thưởng hàng năm là 35,000 mỹ kim. Khi gửi bài đi, thiệt tình con cũng chưa biết Trần Dạ Từ, Nhã Ca là ai.
Kết quả: Giải chung kết Việt Báo Viết Về Nước Mỹ năm 2007 được loan báo là... Anne Khánh Vân. Đây là giải lớn nhất trong năm. Người trúng giải một mình "ẵm" gọn...10,000 mỹ kim. Mèn ơi. Đúng chuyện khó tin mà có thực. Chưa hết. Còn thêm một chuyện khó tin được chính vị trưởng ban tuyển chọn là nhà báo Nguyễn Xuân Nghĩa loan báo ngay trong lễ phát giải hôm Chủ Nhật 26 tháng Tám, 2007. Chú Nguyễn Xuân Nghĩa là một chuyên gia kinh tế, trước 1975 từng là Thứ trưởng Bộ Tài Chánh VNCH, đồng thời là một giáo sư tài chánh của đại học Saigon. Xin cho con được trích nguyên văn lời chú khi công bố giải thưởng:
"Duyên nợ với nước Mỹ" là câu chuyện về một gia đình từng được người Mỹ nhận làm con nuôi từ thời ông bà nội của tác giả, mà trải qua nhiều cơ hội trong suốt 50 năm thăng trầm, cả nhà vẫn cứ hụt mãi cái hẹn với Hoa Kỳ. Chuyện ly kỳ và cảm động nhất là bài viết của tác giả đã góp phần biến giấc mơ ấy thành sự thật. Khi được thông báo bài viết vào danh sách chung kết, tác giả lập tức vận động khắp nơi và chỉ trong 10 ngày đã hoàn tất mọi giấy tờ đưa được ba má từ Việt Nam qua Mỹ theo thủ tục khẩn cấp. Kết quả là trong câu chuyện có câu chuyện khác và trong giải thưởng có giải thưởng khác là sự đoàn tụ của một gia đình trên đất Mỹ, cùng dự họp mặt với Việt Báo hôm nay."
Đúng như chú Nghĩa kể, nhờ giải thưởng Viết Về Nước Mỹ, rồi nhờ sự trợ giúp đặc biệt của văn phòng Thượng Nghị Sĩ Jim Webb tại Virginia, văn phòng Dân biểu Loretta Sanchez tại California, ba má con đã kịp thời đến được nước Mỹ để dự buổi lễ phát giải thưởng hôm ấy.
[Mọi bài viết liên quan tới giải thưởng có in trong sách Viết Về Nước Mỹ do Việt Báo ấn hành. Còn lưu trên Việt Báo Online, có thể đọc lại: http://www.vietbao.com/?ppid=74&pid=51&auid=2842&nid=100143&page=2.]
Con nhớ rõ lời vị chánh chủ khảo dành cho chuyện khó tin của con, "Trong câu chuyện có câu chuyện khác và trong giải thưởng có giải thưởng khác..." Vậy mà riêng với con, vẫn còn thêm một câu chuyện khác nữa chưa kể. Chuyện nhờ bác Lê Trị mà có, nhưng cho tới nay, hai bác cháu vẫn chưa có cơ hội ngồi lại với nhau, để con có thể kể với bác phần lạ lùng cuối chuyện.
Hai bác Trị và các chị, những tấm gương của một thời khó khăn, là người thân của cả gia đình con. Từ ngày sang Mỹ theo diện H.O., hai bác định cư ngay tại vùng Little Saigon. Ba má con lần đầu tới đây, sau khi mừng tái ngộ, hai bác và các chị đều có mặt tại nhà hàng Seafood World trong buổi lễ phát giải.
Nhà thơ Trần Dạ Từ và nhà văn Nhã Ca là những người sáng lập Việt Báo và giải thưởng Viết Về Nước Mỹ. Trong dạ tiệc phát giải tại nhà hàng, chú Từ cô Nhã chia nhau đi từng bàn thăm hỏi mọi người. Khi chú Từ đến bàn của gia đình con, bác Trị đứng lên. Chú Từ tức thì nắm tay bác, rồi lập tức "kể tội" bác Trị với mọi người:
"Đây là ông bạn tù đã góp phần hành hạ tôi không biết bao nhiêu đêm trong tù."
Ủa, sao có thể vậy?
Con đã nghe bác Trị kể từng ở tù chung với chú Từ, không ngạc nhiên khi hai người nhận ra nhau, nhưng nghe vậy cũng hơi... hoảng. Còn nhớ ngay sát bàn con lúc ấy có chú Tân Ngố và cô Iris Đinh. Cả bàn chuyện trò đang rôm rả bỗng thấy lắng hẳn lại. Hai người cựu tù cùng ngồi vào bàn. Cụng ly. Không có vẻ gì là sắp... đấu súng. Chú Từ hỏi "ông gặp Lão Tam chưa?" Bác Trị nói "tôi thăm thầy Tế rồi." Nhiều tên người hoặc biệt danh được nhắc tới: cụ Khánh, cụ Sinh, ông Hinh, rồi Lão Đại, Lão Nhị...
"Cái ông Lê Trị này là một cây kỳ tài trong các xưởng mộc của trại tù," chú Từ kể. "Không phải chuyện đóng bàn, đóng tủ bình thường đâu. Ông ta đóng đàn. Ghi-ta. Violin. Đàn bầu. Đàn cò... Đủ loại cho các bạn tù. Từng có lần bị lãnh búa vì tội 'chôm' gỗ quí của nhà tù xẻ ra đóng đàn và 'làm chuyện riêng trong giờ công... tù' mà cũng không tởn. Hồi còn ở trại tù Z30D Hàm Tân, chúng tôi nằm cạnh nhau. Ông Trị trổ tài làm cho ông Tế một cây violin. Kết quả là đêm nào trước khi ngủ ông Tế cũng vác cây đàn tự chế lên. Cứ hết 'ông nghe Schubert nhé', rồi lại 'ông nghe Chopin nhé.' Trong các loại đàn không gì ghê rợn bằng tiếng đàn violin lạc giọng. Dây đàn thì quấn bằng dây điện. Cần kéo đàn thì căng bằng sợi ny lông... Làm sao mà tiếng đàn chính xác. Ông Tế thì nghễnh ngãng, cứ tưởng tiếng đàn của ông ấy hay lắm. Ông Trị thì khoái chí thưởng thức cái violon ông ấy tự chế biến. Vậy là chỉ mình tôi nằm cạnh lãnh đủ. Đã tù khổ sai còn bị cái đàn ấy hành hạ không biết bao nhiêu đêm."
Nghe chú Từ than, mọi người trong bàn đều cười.
Thì ra chỉ là chuyện "mắng vốn" vui vẻ để gợi lại kỷ niệm thân thiết giữa ba người bạn tù "sành điệu" về âm nhạc. Bác Trị từng đóng cả trăm câu đàn, chú Từ từng viết nhiều ca khúc. Riêng người được bác Trị kêu thầy Tế, chú Từ kêu Lão Tam, là Giáo sư Nguyễn Sĩ Tế, rất giỏi nhạc cổ điển. (Nhạc sĩ Sỹ Đan thường xuất hiện trong video ca nhạc ASIA là trưởng nam của bác Sỹ Tế). Những người được nhắc trong câu chuyện đều là các nhà văn, nhà báo con từng đọc bài trên báo xuân Việt Báo. Cụ Sinh là nhà văn Mặc Thu Lưu Đức Sinh. Cụ Khánh là nhà báo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Ông Hinh là nhà văn Thảo Trường Trần Duy Hinh. "Cụ Khánh" hay "Ông Hinh" còn từng là giám khảo giải thưởng viết văn của Việt Báo mà con đang lãnh giải.
Còn nhớ hôm ấy, khi mọi người cười vui, thì con tuy cười mà... lờ quờ, vì tên cái nhà tù được nhắc trong câu chuyện: trại tù Z30D ở Hàm Tân. Đó là nơi chính con đã từng... ở tù vì tội vượt biên năm 10 tuổi.
Có phải đúng cái nhà tù ấy? Có thể lầm lẫn không? Không. Con nhớ rõ lắm. Con đường đất đỏ dẫn vào trại tù. Cổng trại tù K1, K2... Con biết cả cái nhà lô nơi đội tù thợ mộc cưa cưa đục đục. Bác Trị từng ở đó. Chú Trần Dạ Từ từng ở đó. Chú Bảo Trâm từng ở đó. Các chú bác khác cùng đơn vị 101 với bác Lê Trị cũng từng ở đó. Má con từng tới đó thăm nuôi con. Bác Trị gái, cô Nhã Ca hẳn cũng đã tới đó. Và rồi, hơn 20 năm sau, cái con bé lon ton trong trại tù năm xưa, hôm nay ngồi đây... Làm sao có thể tưởng tượng nổi.
Có nên kể ngay với các chú bác sự tình cờ lạ lùng này không? Con tự hỏi. Không. Không nên kể ngay. Phải coi lại. Phải hiểu thêm đã. Con tự nhủ và tiếp tục... lờ quờ. Cho tới bây giờ.

*
Thưa các chú bác 101,
Thư chú Bảo Trâm nhắc con ngày 30 tháng Tư. Đúng là nhờ viết về những ký ức từ ngày này, con đã có duyên may lãnh giải Viết Về Nước Mỹ 2007; rồi trong buổi phát giải, thêm duyên được thấy sự tái ngộ giữa những người từng "chung một nhà tù". Nhờ đó mà con thình lình hiểu ra là mình... chẳng hiểu gì cả.
Là con bé từng lon ton vào tù vài ba tháng, con có thể tự cho mình biết "nhất nhật tại tù..." là gì hoặc mô tả cái nhà tù Hàm Tân ra sao. Thật ra, đó chỉ mới là cái hiểu biết con nít. Chuyện 30 tháng Tư, chuyện nhà tù không chỉ như con tưởng. Suốt ba năm qua, con đã cố tìm hiểu thêm, học thêm, suy ngẫm thêm về nó và nhiều lần... "tá hoả tam tinh."
Đọc Nội San Ái Hữu Đơn Vị 101, con biết thêm có 10 vị chỉ huy các ngành an ninh - trong số này có vị chỉ huy trưởng của 101, Đại tá Lê Đình Luân- đã tù luôn một lèo... 17 năm.
Đọc nhà văn Thảo Trường, con biết thêm nhóm "lão tù" này gồm bao nhiêu vị, họ tù ở đâu, tù ra sao: "Trại còn mười hai tù binh, mười sáu công an, hơn bốn trăm con bò. Công an giữ tù. Tù giữ bò. Cứ thế mà thống trị nhau." Đó là mấy dòng mở đầu truyện "Con Bò" trong sách "Những Miểng Vụn Của Tiểu Thuyết."
Nhà văn Thảo Trường chính là vị lão tù thứ 11, cạnh 10 vị chỉ huy mà nội san 101 đã kể. Đọc ông, con không chỉ hiểu các chú bác đã ở tù ra sao, mà hình như còn hiểu mấy chục năm nay bà con cả nước đang phải sống ra sao:
"Trong tù, công an vẫn gọi tù là anh xưng tôi, dù người tù ấy bẩy tám chục tuổi còn công an mới mười chín, hai mươi! Kể ra về vai vế thì phải là ông cháu. Phúc đức dày thì phải là cụ cháu. Nhưng thời này phúc đức rất mỏng! Anh tôi suốt thành... quen miệng và quen tai. Con cháu cũng không thấy mình là sách mé hỗn láo vô phép mất dạy. Cha ông cũng không thấy phiền muộn vì bị xúc phạm. Chẳng qua là cái chính sách đàn áp nó xiềng xích đầu óc người ta lại thành quen rồi. Bọn khủng bố còn tập cho tù nhân chịu đựng cái sức ép lún xuống một độ sâu hơn nữa, chúng lên lớp rằng chính sách cải tạo là một chính sách giáo dục, trại giam là trường học, tù nhân là học trò, còn chúng tự nhận là... thầy! Chúng nói hoài nói mãi suốt mấy chục năm, nói từ Bắc vô Nam, nói từ Nam ra Bắc, ai nói khác đi chúng bắt bẻ, buộc tội ngay. Miết rồi quen, vợ con họ hàng ở nhà có ai hỏi cũng quen miệng trả lời 'nhà tôi đi... học, bố cháu đi học, chú ấy, bác ấy đi học...'"
Và cứ thế kéo dài tới năm thứ 17. Nơi "thập nhị lão tù" này thành "cowboys" vung roi coi bò vẫn là... nhà tù Z30 Hàm Tân. Đừng tưởng bò ở đây hiền hơn bò Texas. Thắm, tên con bò dữ nhất trong đàn từng húc chết một nữ tù xinh đẹp tên Thủy khi cô tới lấy phân bò. Nhưng rồi con Thắm cũng có ngày về già, và... "công an ôm súng AK đi theo đội hình hàng ngang tiến tới, in như trong bài tập tấn công. Có anh còn đi theo thế lom khom như đang xung trận thật sự. Anh trưởng toán công an giải thích Ban Giám Thị cho... làm thịt. Bác (tù) già thở phào: Tưởng cán bộ đi tấn công quân đế quốc bành trướng gì chứ...
Sau đó là trận chiến máu me bi hài. Nhà văn lão tù viết, "...không hiểu sao hình ảnh con Thắm tội nghiệp, hình ảnh cô Thuỷ xinh đẹp, hình ảnh các bác tù binh già lầm lì khốc liệt, khu Rừng Lá âm u, và tính chất súc vật của một nền văn minh cộng sản, nó cứ ám ảnh lẽo đẽo theo tôi hoài."
Nhà tù Hàm Tân, ngoài đàn bò, còn có một con voi nổi tiếng, từng lên báo, lên đài. Các chú bác đơn vị 101 từng qua năm tù thứ 13 ở đây hình như đều biết. Sách "Những Miểng Vụn của Tiểu Thuyết" có truyện "Ông Bồ" kể về nó. Đàn voi Rừng Lá có con voi mẹ bị bắn chết gần trại tù (nghe nói tư dinh Thành Uỷ sau đó có trưng cặp ngà voi quí lắm). Voi con mất mẹ đói quá nằm vạ tại nhà lô, trại trưởng sai tù đẩy nó vào trại, bắt nhà bếp bớt phần khoai gạo của tù nấu cháo cho voi ăn. Mỗi bữa, cả chảo cháo bự, voi con làm loáng cái là hết. Hai nhà văn "ngụy" nằm trong tù tán gẫu: "...Thụy Điển họ từng viện trợ cho cả một nhà máy giấy Bãi Bằng lớn nhất Đông Nam Á, sao không mang 'cu tí' này 'cống' vua Thụy Điển gây cảm tình 'hữu nghị quốc tế bền vững,' tù khỏi bị bớt phần ăn và khỏi phải 'đẩy đít ông Bồ' về rừng."
Chuyện tán gẫu của hai ông - tác giả "Bụi Tầm Xuân" và tác giả "Người Đi Qua Đời Tôi"- được "Ban Tự Quản" lắng nghe. Sau đó báo chí và truyền hình nhà nước có ảnh con voi con của trại tù được đưa lên máy bay cùng với thú y sĩ và chuyên viên sở thú đi theo chăm sóc. "Bản tin nói thủ tướng chính phủ nước ta gửi quốc vương Thụy Điển con voi quí làm quà tặng để kỷ niệm tình hữu nghị thắm thiết..."
Truyện "Ông Bồ" được ghi là "Tặng NC&TDT". Con biết người được đề tặng là ai.
Sách "Hồi Ký Nhã Ca" có kể chuyện đi thăm nuôi gặp nhà văn Thảo Trường và gọi ông là "Tướng Cướp Núi Mây Tào." Ngọn núi này nằm gần nhà tù Hàm Tân. Bên cạnh con suối chẩy qua trại tù có cái nhà thăm nuôi. Con biết nơi này. Sau đây là đoạn chuyện trò giữa chú Từ, cô Nhã trong nhà thăm nuôi vào lúc chộn rộn nhất:
“Giờ thăm gặp sắp hết. Ở bàn đầu, thân nhân thăm nuôi đã lục tục kéo lên bàn cán bộ làm thủ tục gửi tiền.
"Lần thăm nuôi trước, lúc vào, nghe tin cán bộ trại giữ em lại làm việc?"
Chuyện từ mấy tháng trước. Giờ thăm nuôi bị rút ngắn. Vào một phòng nhỏ. Cán bộ trưởng trại đích thân gặp. Có trà nóng mời uống.
"Chẳng có gì đâu. Đài BBC loan tin anh và anh Tế đang bị hành hạ trong trại tù. Họ bảo anh phải ở đội lao động nặng chỉ vì anh chưa tự giác, em phải động viên anh để anh an tâm (học tập) cải tạo. Trưởng trại hỏi em có muốn anh sẽ là người trở về sau cùng không?"
"Em trả lời sao?"
"Em nói anh không phải là người về sau cùng. Người về sau cùng sẽ chính là cán bộ. Vì còn một người tù, cán bộ còn phải ở lại để coi tù."

Đúng quá. Cho tới giờ này, cái nhà tù ấy vẫn còn và đương nhiên vẫn còn anh cán bộ coi tù. Khi đọc xong đoạn đối thoại này, con nhớ mình đã phá ra cười. Nhưng cười xong thì ngẩn ngơ. Sách "Hồi ký Nhã Ca về nhà tù nhỏ, nhà tù lớn” viết từ năm 1990. Bây giờ đã thêm 20 năm. Mới đây, nhiều nhà hoạt động cho dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam bị bắt cũng được đưa tới đó.
Vẫn còn. Vẫn vậy, nhà tù lớn, nhà tù nhỏ. Vì đâu nên nỗi?

Sách "Quê Hương Bạn Hữu Tù Đầy" do Trung Tâm Độc Lập, Stuttgard, Cộng Hoà Liên Bang Đức, ấn hành nhân "Ngày Văn Nghệ Sĩ Việt Nam 1990" có bài của nhà báo Hồ Văn Đồng, kể chuyện "Ở tù với Trần Dạ Từ và bạn hữu":
"Hồi hai anh em cùng nằm một chiếu ở trại khổ sai Gia Trung, đến phiên tôi dạy anh Từ học thêm tiếng Pháp. Lại có thêm một chuyện buồn cười. Không khá gì hơn ông thầy Nguyễn Mạnh Côn (bắt học tiếng Tây bằng bản tuyên ngôn vô sản thế giới đoàn kết lại), anh Từ lại phải tộng cho bằng hết toàn văn Lê Nin bằng tiếng Tây, nhờ hình Lê Nin, mà sách gửi được vô trại tù.”
Tụng Lê Nin kỹ quá, có lần anh Từ nói, 'Có dịp, anh em mình phải chú giải lại Lê Nin bằng sự việc ông ạ. Tức cười thật, thì ra trí tuệ phương tây bị chữ nghĩa bắt nạt, chả hiểu gì cả.
Đầu năm 1978, thân nhân anh Mai Văn Lễ (Khoa trưởng luật khoa Huế, nguyên phó chủ tịch Hội đồng kinh tế quốc gia, rất thân quí anh Từ) lên thăm cho hay chị Nhã và lũ nhỏ bị đuổi khỏi nhà, trục xuất khỏi thành phố. Suốt cả năm không có tin nhà, chả biết vợ con sống chết ra sao, anh Từ không hề hé răng nói một câu lo lắng, vẫn bình tĩnh tụng Lê Nin toàn tập."
[Có thể đọc toàn bài tại .]
Cũng trong sách này, con tìm ra cái chú giải về "chính sách lương thực" của Lénine, "Phải cầy đi cầy lại, cầy tới cầy lui, sao cho trên luống cầy của chúng ta không còn một hạt giống tư sản nào có thể mọc lại được."
Đúng là thời còn học tại nhà trường xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam con từng biết chính sách này, từng thấy nó được xưng tụng là "Vũ khí chuyên chế vô địch của giai cấp, Chủ nghĩa bách chiến bách thắng của thế kỷ." Chỉ không hiểu sự liên hệ giữa nó và cái đói, không chỉ đói trong tù mà đói từ Bắc chí Nam. Cho tới khi đọc chú giải Lê Nin bằng... thơ:

Cái đói thành vũ khí chuyên chế vô địch
Nó được tính toán, được kết hợp lô-gích
Sự co thắt dạ dầy. Nước miếng. Tiếng kẻng
Được tung, được hứng
Được quảng cáo xôm tụ:
Kiểm kê. Quản lý. Làm chủ
Và nó vơ. Nó vét. Nó ban phát ơn huệ
Biến chén cơm, miếng bánh thành ma tuý
Biến tiếng kẻng cho ăn thành lệnh của ma quỉ
Để khuất nhục đồng loại.
(Trần Dạ Từ, Hòn Đá Làm Ra Lửa)

Hậu quả, với thế giới, là cái "vũ khí chuyên chế vô địch" ấy đã tàn sát cả trăm triệu người. Tại Việt Nam, cái đuôi của nó là "Cải cách ruộng đất" tại miền Bắc, là chiến tranh Nam Bắc tương tàn. Rồi 30 tháng Tư, cải tạo tư sản công thương nghiệp, chính sách kinh tế mới, 240,000 quân cán chính miền Nam đi vào nhà tù, hàng triệu người ra biển, chết dưới đáy biển... cho tới bây giờ.
Trí tuệ phương tây đã qua cơn "bị chữ nghĩa bắt nạt". Tại vùng Washington DC, nơi con đang sống, đã có Đài Tưởng Niệm Những Nạn Nhân Cộng Sản. Nhiều dân tộc, Đông Âu, các nước cựu thuộc địa Sô Viết ở vùng biển Baltic cũng như chính nước Nga của ông Lê Nin, tất cả đã tỉnh cơn ác mộng. Còn Việt Nam thì sao?
Ở vườn hoa Hà Nội, có tượng ông Lê Nin. Ông ta đã đứng đó từ sau khi đất nước bị chia đôi năm 1954, khi cộng sản đặt cả miền Bắc dưới cái ách chuyên chế của họ, phát động cải cách ruộng đất, giết hàng trăm ngàn người.

"Ông Lê Nin ở nước Nga.
Mà sao ông đứng vuờn hoa nước ....mình?"
Từ lâu rồi, con nghe dân Hà Nội có câu đồng dao ấy. "Đúng là một câu hỏi ngây ngô, trong trăm ngàn cái ngây ngô khác của đất nước," một ông anh của con bình luận. Nhưng ngây ngô mà hỏi vậy quá đúng. Nói cho ngay, cái ông Lê Nin đứng ở công viên Hà Nội cũng chỉ là cái tượng xi măng thôi. Khổ nhục của dân mình, nước mình, trăm tội đổ hết lên đầu ổng cũng... tội! Vậy thì nó là ai? Nó là cái gì, mà vì nó ông ta đứng ở đó, vì nó mà cả một vùng đất lịch sử địa linh nhân kiệt của đất nước phải đói khổ, nhục nhã. Dân ngây ngô còn biết đặt câu hỏi. Vậy thì các vị học giả, trí giả của Bắc kỳ đâu rồi?
Hên quá. Con tìm hiểu thêm và tìm thấy. Đâu phải các nhà văn nhà báo chỉ là những tên tuổi mà bọn con đã phải tụng trong sách dạy thơ văn cách mạng. Cũng đâu phải đợi đến bây giờ. Ngay từ năm 1955 tại Hà Nội, đã có người chỉ đích danh tên nó. Người đó là cụ Phan Khôi, một học giả, một nhà thơ. Báo xuân Việt Báo có trích thơ cụ. Con đọc là nhớ luôn 2 bài thơ sau đây. Bài "Nắng Chiều" chỉ có 4 câu:

Nắng chiều đẹp có đẹp
Tiếc tài gần chạng vạng
Mặc dù gần chạng vạng
Nắng được thì cứ nắng.

Bài thứ hai lui tới hoài hoài cũng chỉ gồm mấy từ ngang như... cua. Đọc mà bái phục, ngậm ngùi:
Làm sao cũng chẳng làm sao
Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi
Làm chi cũng chẳng làm chi
Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao
Chính là với tinh thần ấy, ngay từ năm 1955 -chắc cũng cùng lúc ông Lê Nin xi măng đến đứng vườn hoa - cụ Phan Khôi đã chỉ ra cái tên của "nó".
Nó là "Ông Bình Vôi."
Bài viết cùng tên của Phan Khôi được mở đầu bằng câu: "Khắp nước Việt Nam có tục ăn trầu, cho nên ở đâu cũng có bình vôi." Mỗi khi quệt vôi têm trầu, vôi dư được gạt vào miệng bình. Dần dà, bình vôi bị vôi lấp kín miệng, hết xài, phải bỏ ngoài gốc đa. Dân quê ra đó đốt nhang cúng vái, gọi nó là "Ông Bình Vôi".
Và cụ Phan kết luận: "Tôi viết cái bài khảo cứu nhỏ nầy cốt để cắt nghĩa mấy câu thơ của Lê Đạt:
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một cái bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại."

Cả thơ Lê Đạt và bài viết Phan Khôi đều được đăng trong "Nhân Văn Giai Phẩm" do chính cụ Phan làm chủ nhiệm. Kết quả là tất cả "bọn Nhân Văn Giải Phẩm" gồm nhiều văn nghệ sĩ trí thức Hà Nội thời ấy được "Bác và Đảng" cho đi "học tập cải tạo" và đầy đoạ đến chết. Trong số này có tác giả bài quốc ca miền Bắc là nhạc sĩ Văn Cao, bị cấm viết, bỏ đói. Riêng cụ Phan khi chết rồi, con trai (một Đại Tá từng làm chủ nhiệm báo Cứu Quốc thời "khởi nghĩa" 1945) không dám đi đưa đám. Di hài cụ, sau khi vùi xuống đất còn bị cầy xới lên cho mất hết dấu tích.
["Hồ Sơ Lịch Sử Nhân Văn Giai Phẩm" do nhà nghiên cứu văn học Thụy Khuê biên soạn hiện có trên trang web của đài RFI - http://www.viet.rfi.fr/tong-hop/20100311-nhan-van-giai-pham. Mọi người có thể đọc đầy đủ.]
Riêng con, từng có thời là "Thiếu nhi quàng khăn đỏ", con nhớ mãi cái hình ảnh các thiếu nhi cháu ngoan Bác Hồ khiêng kiệu diễn hành, trên kiệu là tấm hình tổ chảng của "Bác". Trong khi thiếu nhi ở những nước văn minh thì ngồi học với computer, laptop, chỉ có "Ông Bình Vôi" mới lo cho tương lai nước ta kiểu này.
Chính cái "Ông Bình Vôi" này còn đặc biệt liên hệ chuyện Tháng Tư, cho tới tận bây giờ.

*

Thưa các chú bác 101,
Là con cháu những người miền Nam từng đi tù, lớn khôn trong chế độ xã hội chủ nghĩa, con biết đủ thứ chuyện "cười ra máu mắt" hậu ba mươi tháng Tư.
Đến được nước Mỹ, con đã hơn một lần bồi hồi khi học lịch sử Hoa Kỳ.
Như Việt Nam, đất Mỹ cũng từng là thuộc địa của Anh, của Pháp và từng có chiến tranh dành độc lập. Dân Mỹ cũng từng có nội chiến Nam Bắc. Nội chiến cũng kết thúc đúng vào một Tháng Tư lịch sử.
Ngày 8 tháng Tư năm 1885, khi Tướng Robert Lee, tổng tư lệnh Nam quân loan báo quyết định đầu hàng, tại nơi hẹn, Tướng Grant tư lệnh miền Bắc chiến thắng và bộ tham mưu của ông đón vị tướng bại trận bằng nghi thức danh dự, chào kính. Quân đội miền Bắc thắng trận cũng lập tức được lệnh “tuyệt đối không reo mừng” trên chiến bại của quân đội miền Nam. Ba ngày sau, 12 tháng Tư 1885, lễ giao nạp vũ khí được tổ chức tại cánh rừng Appomattox, phía Nam bang Virginia.
Khi 28,000 sĩ quan và binh sĩ miền Nam bại trận được chỉ huy bởi tướng John Gordon bước theo nhịp quân hành, tiến vào khu hành lễ, tướng miền Bắc Chamberlain chỉ huy buổi lễ hô lệnh, "Bồng súng chào!" cho quân đội thắng trận. Một tiếng kèn lệnh. Toàn quân miền Bắc bồng súng nghiêm chào. Họ chào những "anh hùng bại trận". Họ bày tỏ sự tôn trọng của người Hoa Kỳ đối với người Hoa Kỳ. Không thêm một tiếng kèn, tiếng trống, tiếng hô chiến thắng. Sau khi giao nạp 100,000 tấn vũ khí, đạn dược, quân kỳ, hiệu kỳ, tất cả sĩ quan binh lính miền Nam được giữ lại lừa, ngựa và cả võ khí cá nhân. Họ còn được phía thắng trận cung cấp 25,000 phần ăn để lên đường trở về quê quán sống đời tự do.
Lá cờ của miền Nam bại trận được tôn trọng. Cho tới bây giờ vẫn còn được treo nhiều nơi tại các bang miền Nam. Tên tuổi các danh tướng miền Nam vẫn được trân trọng trong sách sử. Tư dinh vị tướng bại trận Robert Lee tại Virginia sau này còn trở thành một bảo tàng với nguyên vẹn cờ hiệu, huy chương sách vở mở cửa cho du khách. Nước Mỹ sau Tháng Tư 1885, không ai bị tập trung cải tạo, không gia đình nào bị cướp đoạt nhà cửa, đuổi đi kinh tế mới, cũng không có ai phải vượt biển, tị nạn. Và rồi...
Tháng Tư Mỹ 1885 trước tháng Tư Việt Nam 1975, đúng 110 năm.
Ôi, cùng một tháng Tư. Người ta thì như thế, mà mình... Lần đầu học về tháng Tư lịch sử của nước Mỹ, con nhớ đủ thứ chuyện rồi bồi hồi tưởng tượng. Nếu ngày 30 tháng Tư năm ấy, từng sự việc được xử lý bằng chính sách như thế này... thế này... thì kết quả mọi sự đã trở thành thế kia, thế nọ... Cứ thế mà bần thần, tiếc rẻ, mơ mộng.
Bây giờ, ôn lại chuyện tháng Tư nước Mỹ, hiểu thêm chút chút, con thấy đúng là lúc ấy mình chẳng hiểu gì cả. Nếu những lãnh tụ Việt Minh phần nào xử sự được như vậy, thì năm 1954 ông ngoại con -người từng được tuyên dương là anh hùng nhờ tiếp tế thuốc tây cho kháng chiến chống Pháp- đâu đến nỗi phải bỏ nhà cửa, quê quán để trở thành... "bắc kỳ di cư". Cũng vậy, các chú bác đâu phải cầm súng tự vệ khi miền Nam bị dìm trong lửa đạn, để rồi bị phản bội, tù tội. Đừng mơ mộng hão nữa. Thấy ra được điều giản dị này, con thấy thương ông ngoại mình hơn, đồng thời thân thiết hơn với ông cha, chú bác của mình, những thế hệ đã tận lực chiến đấu.
35 năm sau tháng Tư 1885, Hoa Kỳ năm 1920 với 106 triệu dân đã có đài phát thanh, thừa giàu mạnh, vượt mặt cả Âu châu.
35 năm sau tháng Tư 1975, Việt Nam 2010 mất đất, mất biển, thua kém mọi lân bang, thua luôn cả Cam Bốt.
Khác biệt dễ thấy nhất giữa hai tháng Tư là trong khi tại Mỹ, đạo lý tự chủ thể hiện qua việc "người Hoa Kỳ tôn trọng người Hoa Kỳ", thì tại Việt Nam, đạo lý vay mượn từ chủ nghĩa ngoại lai được thể hiện qua cách người Việt không biết trọng người Việt, thù hận lăng nhục được cổ võ. "Thương mình thương một thương ông thương mười." Ông đây không phải ông Việt Nam mà là ông Nga, ông Tàu. Nguyên do chỉ là vì "Ông bình vôi" còn đó. Ông ta không chỉ ở Hà Nội, mà còn ở khắp nước. Cả nước thờ cúng và cứ thế "càng sống càng tồi, càng sống càng bé lại."
Thực tế tháng Tư Việt Nam 2010, có thể thấy trêïn các trang báo điện tử nhà nước CSVN, ngay cạnh lời chủ tịch nước kêu gọi hoà hợp hoà giải, đoàn kết để xây dựng đất nước (chắc nhắm món kiều hối 8, 9 tỉ đô mỗi năm), vẫn tiếp tục phô trương hình ảnh 50,000 người "mít tinh" mừng 30 tháng Tư ở Saigon, có bộ đội súng ống diễu hành, xe tăng diễn lại cảnh phá xập cánh cổng Dinh Độc Lập, đủ thứ văn hay chữ tốt khoe thành tích anh hùng, kể "tội ác mỹ ngụy."
Đặc biệt kỷ niệm "35 năm thống nhất", còn có cả một "hội nghị khoa học" nghiên cứu lại lịch sử 30 tháng Tư được tổ chức rình rang. Lịch sử có sẵn đó những bài học đáng học. Tại sao năm ấy chỉ riêng miền Nam đã khá hơn Hàn Quốc, Thái Lan, mà bây giờ cả nước thua kém? Có thể Nam Bắc cùng "ra biển lớn" ngay từ những năm 1970’ thay vì phải chờ 30 năm sau? Có thể quan hệ đôi bên cùng có lợi với Mỹ ngay trong hai ngày thay vì 20 năm sau? Có cách nào hay hơn để bảo vệ máy móc cơ khí tối tân thay vì gỡ chở ra bắc bỏ ngoài mưa nắng để bị xẻ thịt? Có cách nào bảo vệ vườn cây trái, đồng lúa miền Nam thay vì để dân phải tự động chặt bỏ...? Nghiên cứu khoa học về 30 tháng Tư có thể nào không biết đến tháng Tư 1885 của Mỹ? Có thể nào không biết suốt 35 năm qua, người Mỹ cũng không ngừng nhìn lại, tranh luận, phê phán sửa chữa những sai lầm của chính họ trong chiến tranh Việt Nam? Có thể nào không coi lại về người cựu tù Hỏa Lò John McCain? Có thể nào không đọc bài "Our Saigon Friends Still Need Help" của James Webb, (NYT 1991)? Cả hai và nhiều vị khác, vì muốn cứu giúp mang gia đình những tù nhân "cải tạo" -từng cùng họ chiến đấu một thời- sang Hoa Kỳ, mà đã giúp nhà nước ta "xuất khẩu H.O.". Rồi cứ thế thâu lời trên lưng những người mà chính công sản đã hành hạ.
Ông Webb nay đã là chủ tịch uỷ ban Đông Á Thái Bình Dương của Thượng Viện Mỹ, đang giúp tạo quân bình lực lượng tại biển Đông, tạo cơ hội vận động "đa phương hoá" biển Đông, giảm bớt thế Trung Quốc độc bá. “Nhà nước ta” hình như cũng bắt đầu "yêu thích" TNS James Webb.
Đúng là nhiều kinh nghiệm từ 30 tháng Tư cần được nhìn lại. Nhưng cái hội nghị khoa học 30 tháng Tư ấy nghiên cứu đề tài gì? Chỉ là nghiên cứu cách chế tác sự kiện lịch sử, làm bật lên tên tuổi vài ba anh hùng khác để thay thế cái ông Thượng Tá "tiếp thu" sự đầu hàng tại Dinh Độc Lập ngày 30 tháng Tư?! Lý do, vì ông ta đã bỏ Đảng, bỏ quân đội anh hùng để tị nạn chính trị bên Pháp.
Cùng trong tháng Tư này, Vietnam Net, nhật báo điện tử chính thức của nhà nước CSVN -do một cấp thứ trưởng làm tổng biên tập- tin và hình ảnh lớn nhất trang Quốc Tế mỗi ngày của báo này đại loại là "Một sinh viên (Mỹ) ăn cắp 200 cái quần lót của nữ sinh", "Tỷ phú (Tàu) kén vợ", "MC truyền hình (Quảng Đông) tự khoả thân vì yêu nước", "10 siêu mẫu quốc tế bốc lửa" hoặc "Vị thành niên vũ khoả thân mỗi đêm kiếm 350 đô la"...
Đó là cách nhà nước "mở cửa" học hỏi thế giới để "đổi mới".
Có đáng ngạc nhiên không, khi nước Việt Nam sau 35 năm hoà bình được quốc tế xếp hạng thứ ba về thành tích... buôn người, cung cấp các bé gái cho thị trường mãi dâm Cam Bốt, cung cấp cô dâu, "osin" cho Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia, Li Băng...

*

Thưa các chú bác 101,
Khi giới thiệu con với các chú bác, bác Lê Trị đã nói, "Kính mời quý niên trưởng và chiến hữu đơn vị 101 dành chút thì giờ xem qua bài viết để hỗ trợ cho hậu duệ con cháu chúng ta có tinh thần hướng về quê hương Việt Nam."
Trong bài "Chuyện nước Mỹ, Chuyện Việt Nam" mà bác Trị giới thiệu, con có đề cập tới cảnh các em thiếu nhi Hà Nội được (người lớn) tổ chức rước ảnh tưởng niệm ca sĩ nhạc Pop Micheal Jackson. Đám rước thiếu nhi ấy đi qua cái vườn hoa có tượng ông Lê Nin đứng. Ông ta vẫn tiếp tục đứng đó. Nhiều ông Nga, ông Tàu khác cũng vẫn tiếp tục đứng trong sách giáo khoa ở Việt Nam. Khi viết bài này, con nhớ thêm điều ấy.
Biết ơn sự hỗ trợ của các chú bác 101 dành cho, con hãnh diện được là con cháu các chú bác, những người đã tận lực chiến đấu và trả giá cho tự do và hiểu biết, hãnh diện được nghe, được đọc về ông cha, chú bác.
Ba năm trước đây, tại đêm nhận giải Viết Về Nước Mỹ, khi thình lình thấy mình từng "chung một nhà tù" với bác Lê Trị, với chú Trần Dạ Từ và biết bao chú bác khác, con đã... lờ quờ rồi im như thóc vì thực tình chẳng biết gì để nói. Làm sao kể được "thành tích" ấy. Bây giờ, biết thêm chút chút, “khoe” được với các chú bác chuyện cũng ù như ai rồi, con còn muốn chia sẻ thêm với các em của con những gì con thấy được. Em gái con còn ở Việt Nam, đã có hai cháu. Em trai con đang ở Úc, vợ chồng em cũng sắp có cháu.
Con biết lớp bạn trẻ ngày nay thường không hiểu cái giá mà cha chú từng phải trả để mình được an lành, tự do, no đủ. Có một số bạn trẻ từng ra vẻ... duyên dáng khi kể về chính cha chú mình, nói các ổng "theo đạo Hồi". Hồi đây không phải là Hồi Giáo. Chỉ là từ câu "Hồi xưa, hồi đó, hồi tụi tao..." mà các bạn thường phải nghe khi các vị cha chú bắt đầu câu chuyện.

Thưa các chú bác,
Thưa ba má,
Thưa ông ngoại của con,
Mọi chuyện con kể trong bài viết này đã bắt đầu bằng mấy tiếng "Hồi đó... Hồi xưa..."
Chuyện Việt Nam 30 Tháng Tư 1975 cũng có thể được coi là loại chuyện "Hồi đó, xưa rồi." Nhưng đạo nào thì đạo, hồi nào thì hồi, xưa mấy thì xưa, chừng nào chưa thật hiểu cái ngày 30 tháng Tư ấy, chưa học được bài học từ nó, thì ngay chính nước Việt Nam cũng khó mà khá hơn. Và người Việt hôm nay, ngày mai, ở bất cứ đâu, nếu không hiểu về nó thì cũng thật khó có thể là... chính mình.
Con đã nhận từ ông bà, chú bác biết bao chuyện về nỗi đau "hồi đó", niềm tin "hồi đó", ý chí "hồi đó". Với cả lòng biết ơn và hãnh diện, con thật muốn chia sẻ và nhắc nhở các em của con, cả với lớp con cháu của chị em chúng con sau này, rằng: Muốn tương lai khá hơn, muốn bước tới vững hơn, thì phải cố nhìn lại, nhìn lại, nhìn lại nữa!
Tựa đề bài này, vì vậy, mô phỏng câu khai kinh Bát Nhã: "Bước tới. Bước tới. Bước tới nữa." ./.
Anne Khánh Vân
30 Tháng Tư 2010
ANNE KHÁNH VÂN


Cựu Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Đơn Vị 101 / Bộ Tổng Tham Mưu / QLVNCH


Lưu Anh Dũng 4/72 Nguyễn Trọng Hùng 2/68 Phạm Hòa 10B72 Vũ Duy Thêm 10B72