Saturday, October 24, 2009

Chắc Má Tao Mừng Lắm


Võ Đại Tôn (Indonesia-Singapore).

Chiều trên đảo Galang. Nắng chưa tắt và hơi gió biển từ xa thổi vào lành lạnh, dường như có mùi muối mặn. Chúng tôi trong phái đoàn Văn Khố Thuyền Nhân, mỗi người mang một tâm trạng riêng nhưng cùng chung một tâm nguyện, âm thầm thắp nhang cắm trên các mộ bia hoang tàn. Nhiều mộ bia đã bị đập phá, gạch đá nằm lăn lóc, cỏ cháy vàng khô. Nhiều tấm bia đã phai mờ chữ khắc, nhiều tấm bia không có năm sinh, chỉ ghi ngày chết. Tất cả, tất cả đều im lặng, hoang vu, ngậm ngùi. Trên bục đá cao còn sót lại một cột cổng bằng xi-măng vào nghĩa trang, màu sơn trắng đã thành rong rêu loang lổ, ai đã sơn thêm ba sọc màu đen từ trên xuống dưới, thành lá cờ tang của Tổ Quốc, bơ vơ nơi xứ người. Trông thật ảm đạm, đìu hiu, tôi nghĩ đến những dòng nước mắt màu đen của Dân Tộc hôm qua và hôm nay. Tôi cúi đầu khấn nguyện, cắm nhang trên những nấm mộ vô danh, và tôi đang khóc trong lòng. Vì tuổi già leo dốc cao, và vì quá xúc động trước cảnh tượng điêu tàn hoang sơ này, tôi chợt cảm thấy mình ngộp thở, vội trao lại bó nhang đang bùng khói cho người bạn đồng hành trong đoàn, từ Mỹ qua. “Anh cắm nhang tiếp giùm tôi đi, tôi chóng mặt quá!”. Tôi đến ngồi bên cạnh một mộ bia đã bị đập vụn, nghĩ về thảm trạng của cả một trời quê hương, bên kia bờ biển Đông, và nghĩ đến những người đã chết bên này đại dương.

Dưới chân nghĩa trang, dọc theo con đường mòn, có một khu rừng. Một tấm bảng chỉ đường ghi bằng tiếng Anh : “Body Tree”. Trong lùm cây, có một cây đa già buông nhánh và rễ xuống tận đất. Có người nói đấy là cây bồ đề, và bảng chỉ đường “Body Tree” có nghĩa là khu cây bồ đề. Nhưng sự thật không phải như vậy. Dưới gốc cây có dựng ba kệ bàn thờ nhỏ có mái che như cái “trang” bằng gỗ sơn màu đỏ. Thuyền nhân trên đảo trước đây và dân làng địa phương gọi là “Miếu Ba Cô”. Vài anh em trong phái đoàn, đã từng sống trên đảo này, kể lại cho tôi nghe là có ba cô gái trên đường vượt biển đã bị hải tặc hãm hiếp, khi đến được trại tỵ nạn trên đảo đã quá tủi nhục và uất hận, ra treo cổ tự tử trên cành cây đa vào ban đêm. Trong ba người, có hai chị em ruột tuổi còn nhỏ. Đồng bào tỵ nạn trên đảo đã lập miếu thờ và dân làng địa phương cho đến nay vẫn còn gìn giữ nơi này, tin tưởng là chốn linh thiêng. Tôi nghĩ đến tấm bảng chỉ đường “Body Tree”, có lẽ là nơi “Cây treo xác người” chứ không có nghĩa là cây bồ đề. Tôi lặng người, đứng nhìn khu miếu hoang vu này, ngậm ngùi nghĩ đến thân phận của những người con gái Việt Nam, vào lứa tuổi con-em của tôi, đã theo gia đình vượt biển tìm Tự Do, để rồi phải chết trong cảnh oan khiên. Hương lạnh hoang tàn, cô đơn nghiệt ngã. Không biết thân nhân của những người con gái đau thương này, đã được định cư tại một nơi nào đó trên thế giới tự do, có bao giờ trở lại để thắp một nén nhang cầu nguyện ? Anh em trong Văn Khố Thuyền Nhân có ghi lại chi tiết về những cái chết tận cùng khổ nhục này của các cô gái Việt Nam, nhưng tôi chỉ viết lại cảm xúc của riêng tôi vể cảnh tượng. Tôi lại nhìn ra biển khơi và thấy hiện ra căn nhà nghỉ mát đồ sộ nguy nga của con gái tên thủ tướng việt cộng Nguyễn Tấn Dũng trên bờ biển Nha Trang mà tôi đã thấy hình đăng trên báo chí hải ngoại mới đây. Căn nhà nghỉ mát của “con gái siêu đại gia tư bản đỏ” này, ở Nha Trang, và cái ‘Miếu ba Cô” hoang vu trên đảo Galang chiều nay, là nghịch cảnh có thực trong cõi đời này. Nghịch cảnh giữa những người con gái Việt Nam, đang sống và đã chết bên bờ biển Đông, trong hàng triệu nghịch cảnh giữa lòng Dân Tộc. Những người nào còn chút lương tâm, luôn cả nhân loại nếu còn lương tri, sẽ tự tìm ra câu trả lời vì sao ? Trong thời đại này, theo thời gian và theo vị kỷ của con người, có lẽ hai chữ “lương tâm” đang nằm im trên trang giấy trong tự điển.

Ngồi trên xe rời xa đảo trên đường về lại thị trấn quận hạt Batam, tôi nghĩ thêm được những câu kết trong bài trường thi “Hồn Ca Trên Biển Đông” mà tôi đang “viết” trong đầu về linh hồn những người đã chết với những nấm mô điêu tàn :

Hồn mãi còn đây, dù bia mộ hoang vu
Không tên tuổi – sá gì tên với tuổi !
Dù xác thân đã hòa chung cát bụi
Biển Đông còn - Hồn mãi sống thiên thu !

Năm 2005, Hà Nội đã làm áp lực với các chính phủ Mã Lai và Nam Dương để đập phá các tấm bia tưởng niệm Thuyền Nhân đã chết trên biển Đông, và bây giờ, năm 2009, khi chúng tôi đến đây, Hà Nội vẫn tiếp tục yêu cầu chính quyền Nam Dương đóng cửa các khu di tích, xóa bỏ tất cả dấu vết Thuyền Nhân trên các đảo ! Bạo lực và hận thù của một chế độ từ bên kia bờ đại dương đang vói tay qua sóng nước trùng khơi để hủy bỏ chứng tích tội ác của họ, trên những ngọn đồi xứ lạ, nghĩ rằng rồi đây nhân loại sẽ không còn thấy những di tích tang thương này của Dân Tộc Việt Nam. Rồi đây, những bia mộ hoang tàn còn sót lại này, rồi đây “Miếu Ba Cô” tịch liêu này, có còn không ? Tôi nhìn lên trời cao, gió chiều thổi đám mây trắng bay về cõi mênh mông vô định. Lòng tôi đang quấn khăn tang như màu mây trắng. Tôi nghĩ đến thân phận Dân Tộc của tôi, vong linh những thuyền nhân đã chết, và hình ảnh các cô gái Việt Nam treo cổ trên cành cây đa nơi xứ người ! Một trang sử màu đen loang lổ những vệt máu khô.

Chiều nơi khu Geylang. Sau những ngày làm việc tại Indonesia, chúng tôi đi phà từ đảo Pinang về lại Singapore để chờ máy bay “hồi hương” ! Không phải bị “cưỡng bức hồi hương” như một số thuyền nhân trên các đảo trước đây. Vì anh em chúng tôi trong phái đoàn phải tự túc mọi chi phí, và đây không phải là chuyến đi du lịch vui chơi, cho nên chúng tôi phải tìm nhà trọ tại một khu xa thành phố để tiết kiệm tối đa. Khu Geylang hổn tạp, xô bồ, đa số là dân lao động tứ xứ với đủ sắc dân, Tàu, Ấn Độ, Mã Lai, Nam Dương, luôn cả du khách ba-lô từ các nước phương Tây dồn về. Ban ngày dường như ai cũng ngái ngủ, quán xá phần đông đóng cửa, nhưng từ 3-4 giờ chiều cho đến sáng hôm sau thì tấp nập dòng người chen chân qua các khu phố. Bàn ghế ăn uống nhậu nhẹt đặt sát lề đường, không còn một chỗ ngồi. Các quán ăn rộn rịp, om sòm đủ mọi thứ tiếng. Xe cộ dập dìu, mạnh ai nấy băng qua đường, xe phải tránh người. Từ nhà trọ, tôi lang thang bách bộ đi qua các con hẻm để quan sát cảnh sống ban đêm nơi xứ người. Tại nhiều góc hẻm, dân chúng tụ tập quanh các bàn cờ bạc đủ loại, tài xiu, sóc dĩa, quay số... không thấy bóng một cảnh sát viên nào. Ở đâu tôi cũng thấy các cô gái phấn son, ăn mặc hở hang khiêu gợi nhưng có vẻ nghèo nàn. Toàn là gái trẻ, có nhiều cô chỉ vào lứa tuổi 14-15. Có cô đứng ngay bên lề đường để đón khách, có cô thì ngại ngùng nép mình bên vach tường phố, đưa tay nhẹ vẫy, với nụ cười chập chờn qua ánh đèn màu lòe loẹt. Mỗi lần tôi đi ngang các cô gái này, cô nào cũng bập bẹ nói tiếng Anh “You go – Me good !”. Linh cảm cho tôi biết đa số là những cô gái Việt Nam. Lòng tôi se thắt lại. Đây là khu ăn chơi bình dân, giang hồ tứ chiếng, và tôi chợt nhìn thấy nhiều thanh niên bụi đời đang đứng trong bóng tối rình rập, canh chừng các cô gái. Ma-cô đầu gấu. Thỉnh thoảng các cô lại đến thì thầm gì đó, móc túi đưa tiền cho các gã, hoặc đi theo khách vào các nhà trọ trong khu vực. Tại nơi chúng tôi tạm trú, tôi thấy có tấm bảng ghi $10 đô la Singapore 1 giờ thuê phòng. Các cô gái trẻ đi với khách đủ loại và mất hút vào cầu thang, có cô thản nhiên, có cô rụt rè. Đi qua chỗ mấy sạp bán trái cây, đặc biệt là sầu riêng thơm lừng, trước cửa một khu “disco” đèn chớp sáng, tôi thấy các cô gái ăn mặc rất khêu gợi và tôi cũng được mời “You go – Me good”. Tôi lắc đầu bước đi và thoáng nghe sau lưng mấy cô nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt.

Bước vào một tiệm đổi và chuyển tiền để đổi một ít tiền Singapore (thường được gọi là đô la Sin) để đi ăn tối, tôi thấy hai cô gái đang đứng trước quày. Tôi sắp hàng đứng sau lưng. Hai cô cũng mặc quần ngắn, áo mỏng manh, tuổi nhỏ khoảng 16-17, son môi đỏ chói. Chợt tôi nghe một trong hai cô, sau khi chuyển xong tiền, buộc miệng nói tiếng Việt : “Kỳ này tao gửi về được 50 đô. Chắc má tao mừng lắm !”. Cô kia thở dài : “Tao chưa gom đủ tiền, cuối tháng mới gửi được về nhà”.Rồi cả hai bước ra cửa. Tôi vội đổi một ít tiền, chạy theo hai cô gái, vào một quán ăn bên đường. Tôi đến đứng bên cạnh bàn hai cô đang ngồi, định bắt chuyện thì một trong hai cô đã hỏi ngay : “You go – Me good” ! – Tôi ngòi xuống bàn và nói nhỏ : “Tôi là người Việt mà. Mời hai cô ăn uống gì với tôi cho vui”. Cả hai cô đều nhìn tôi ngạc nhiên rồi hỏi nhỏ, bằng tiếng Việt : “Bác ở đây hay là người nước ngoài tới chơi ? Bác “đi” không ? “Đi” một đứa hay cả hai cũng được, “xâu” luôn nha !”. Tôi mĩm cười : “Hai cô ăn uống gì không, tôi mời đó. Tôi ở xa mới tới đây, ngày mai đi rồi”. Tôi gọi ba tô mì và nước dừa tươi. Sau một vài phút thì thầm gợi chuyện, có lẽ thấy tôi là một “ông già” không có tình ý gì xấu, hai cô bắt đầu cởi mở hơn, gọi tôi bằng ông và tự xưng là cháu, và vừa nói chuyện vừa nhìn quanh. Thông thường, các cô gái làm nghề này lâu năm thì trường đời đã dạy thêm chua ngoa, lừa lọc, phịa chuyện đau thương để làm động lòng khách, nhưng riêng với hai cô gái này, tôi nhận thấy vẫn còn chất đồng quê chân thật. Hơn nữa, tôi chỉ gợi chuyện hỏi về những điều không đi sâu vào đời sống riêng tư và đường dây chuyển người. Tôi được biết : - Hai cô gái này đều 18 tuổi, quê ở Vĩnh Long, sang đây được gần một tháng nay. Cuối tháng sẽ đi phà qua quận Batam ở Nam Dương rồi về lại Singapore, ở thêm mỗi lần như vậy được một tháng như là khách du lịch, nhưng chỉ tối đa được ba lần mà thôi. Tôi được biết thêm là tại khu vực này đa số đều là gái từ miền Nam qua, gọi là đi du lịch hoặc xin học nghề, có người bảo lãnh lo mọi thủ tục. Có luôn cả người đi theo canh chừng. Các cô lén chỉ cho tôi mấy gã thanh niên đang ngồi ăn ở góc quán. Không được ngồi chơi với khách, phải dẫn khách đi ngay vào nhà trọ thuê phòng, hoặc qua giờ hoặc qua đêm. Nếu ngồi nói chuyện lâu thì phải trả tiền như là “bao trọn”, với sự đồng ý của mấy gã “đầu gấu”, cũng toàn là người Việt, hoặc là phải “báo cáo” với má-mì. Phần đông các cô đều là gái miền quê, muốn đi tìm chồng ở Singapore hoặc được cam kết cho đi học nghề, nhưng thực ra là qua đây bị ép buộc phải “đi khách”. Trước khi đi phải đóng tiền thế chân khoảng 2.000 mỹ kim cho môi giới, và mỗi tháng phải đóng tại đây 700 tiền đô la Sin. Còn lại bao nhiêu thì được tiêu xài hoặc gửi về gia đình. Trung bình mỗi cô “làm” được khoảng 1000 đô Sin mỗi tháng nếu đắt khách, nhưng những cô lớn tuổi, từ 25 trở lên đều bị chê là già, không ai gọi đi. Càng trẻ càng có giá, tôi được biết thêm là có nhiều cô chỉ mới 15 tuổi cũng đi “học nghề” và được khách ở Singapore ưa chuộng “tuổi trẻ” lắm. Ở Singapore có một khu riêng chỉ toàn gái dưới 15 tuổi, cũng từ Việt Nam qua. Tôi im lặng ngồi nghe, rợn người, thỉnh thoảng gợi thêm chuyện để tìm hiểu. Các cô được đưa qua đây, 10 cô ở chung một phòng, ăn uống tự túc, ban ngày ngủ, ban đêm ra phố “làm việc”, có đầu gấu đi theo để thu tiền và bảo vệ. Gia đình ở quê nhà chỉ biết lo chạy tiền, vay nợ, để gửi con gái mình đi học nghề ở nước ngoài. Đang ngồi nói chuyện, có má-mì cũng người Việt đến bàn hỏi hai cô là tôi có “đi” không ? Tôi vội trả lời thay, là tôi chỉ ngồi ăn uống cho vui thôi. Má-mì giục hai cô ra xe taxi chờ sẵn vì có khách bao đi đêm, tôi phải trả 10 đô Sin cho buổi nói chuyện ngắn ngủi này, coi như là tiền “tiếp khách chay”. Hai cô chào tôi rồi chạy ra xe, taxi lách qua dòng người mất hút vào đám đông.

Tôi thẩn thờ quay về nhà trọ, đi giữa đám đông xa lạ, chợt thấy mình lạc lõng bơ vơ. Tôi nghe nói là Singapore gần đây đã nới lỏng việc phục vụ khách du lịch về mọi phương diện, kể cả mại dâm trá hình, để tăng trưởng kinh tế và nhất là để đáp ứng nhu cầu cho dân số nam nhiều hơn nữ. Riêng về ma túy thì kiểm soát rất gắt gao, vẫn còn thực thi án tử hình. Ở Singapore hiện nay, tìm được một người vợ vừa ý và làm đám cưới là một điều ảo tưởng, đa số đàn ông không thể thực hiện được. Các cô gái Việt Nam đã đáp ứng nhu cầu đó, qua nhiều đường dây môi giới. Lịch sử Dân Tộc chúng ta trước đây chưa bao giờ xảy ra hiện tượng buôn người ra nước ngoài như hiện nay.

Tôi bước đi giữa dòng người nơi xứ lạ, tại một khu vực nghèo nàn, hổn tạp, mà lòng tôi xốn xang. Thương nước, thương cho các thế hệ tuổi trẻ cùng chung dòng máu phải tìm mọi cách qua xứ người để bán thân nuôi mình và gia đình, và luôn cả thương mình đang lưu vong. Hình ảnh căn nhà nghỉ mát nguy nga của cô con gái thủ tướng việt cộng tai bờ biển Nha Trang, hình ảnh “Miếu Ba Cô” trên đảo Galang, hình ảnh chiếc xe taxi chở hai cô gái Vĩnh Long bằng tuổi con-cháu tôi chạy vù trong bóng đêm tai khu Geylang, đi về đâu và sẽ bị dày vò trong vòng tay ai... đang âm thầm bước theo tôi, sẽ đồng hành cho đến cuối hành trình còn lại trong đời. Và câu nói của cô gái bán thân gửi về cho mẹ 50 đô la Sin “Chắc má tao mừng lắm”, mãi còn văng vẳng bên tai tôi. Dân Tộc tôi dưới chế độ cộng sản thực sự là một khổ nạn đến tận cùng !. Mong rằng hai chữ “lương tâm” của con người sẽ không còn nằm im trên trang giấy trong tự điển.

Võ Đại Tôn
Chiều Geylang, Singapore.
16.10/2009.

Hồn Ca Trên Biễn Đông







HỒN CA TRÊN BIỂN ĐÔNG

(Lưu niệm chuyến đi viếng thăm mộ bia Thuyền Nhân tại các đảo Galang và Pinang (Nam Dương) cùng phái đoàn Văn Khố Thuyền Nhân và các Bạn từ các quốc gia trên thế giới. CSVN đang yêu cầu chính quyền Nam Dương đóng cửa các khu di tich Thuyền Nhân trên các đảo. Ngày nào còn CSVN, ngay cả những người đã chết trên các đảo hoang vu, lìa xa Tổ Quốc, cũng không được yên nghỉ ngàn thu...)

Viết tại đảo Pinang ngày 14.10.09.

Võ Đại Tôn (Hoàng Phong Linh)





1.

Hồn ai đó ?

Chập chờn trên khói sóng

Dòng máu tươi theo nước chẳng hòa tan.

Hồn ai đó ?

Vạn tinh cầu chao bóng

Đảo ghềnh xa còn vọng tiếng kêu than.

Hãy về đây – trên sóng nước dâng tràn

Chung tiếng khóc nghẹn đau cùng Dân Tộc.

Hồn ai đó ?

Đã lìa xa Tổ Quốc

Vẫn còn ôm sông núi xuống mồ hoang.

Tiếng oan khiên từ đáy vực còn vang

Hay chìm đắm giữa khơi ngàn sóng dữ ?

Mảnh thuyền tan, bập bềnh trôi viễn xứ

Biết về đâu ? Hồn phiêu bạt nơi đâu ?

Thân cá Hồi tan tác đã chìm sâu

Không tìm thấy lối quay về chốn cũ !

Giữa trùng khơi vang tiếng cười dã thú

Hải tặc giằng co thân xác – kinh hoàng.

Tiếng Mẹ kêu, dòng máu chảy đầy khoang

Tay vời níu đàn con run khiếp sợ.

Biển lạnh chiều hoang, trần gian nín thở,

Vòng tai ương kiếp nạn đến vô cùng.

Hồn ai đó ?

Bờ Tự Do bốn hướng, cõi mông lung

Tìm đâu thấy - giữa muôn trùng đen thẳm ?

Tiếng kêu “Trời!” trước phút giây chìm đắm

Biến tan vào giông bão, thét trùng dương.

Vực mồ sâu thịt rã máu còn vương

San hô trắng hay là xương ai trắng ?

Dòng tóc đen bám ghềnh xa hoang vắng

Thành rong rêu sẫm tím một màu tang.

Hồn ai đó ?

Chiếc thuyền Không Gian

Trôi về Vô Tận.

Bánh xe Thời Gian chuyển ngàn uất hận

Chập chờn mấy cõi U Minh.

Lịch Sử nghìn thu trang giấy rợn mình

Ghi chép lại phút kinh hoàng Vượt Biển !

2.

Hồn ai đó ?

Đảo hoang sơ, ai về đây khấn nguyện

Mộ bia tàn, ai thắp nén hương dâng ?

Nơi Ba-Đình vui chuốc rượu Vô Thần

Cười nghiêng ngả mừng reo hò chiến thắng !

Đồng ruộng phơi bày xương trắng

Oan khiên máu lệ thành sông.

Bao thây vùi trong sóng nước biển Đông

Còn sót lại mấy hoang tàn di tích ?

Hồn ai đó ?

Đảo xa xôi mộ phần cô tịch

Giấc ngủ chẳng bình an.

Họ còn theo, cố phá đập tan (* - CSVN)

Để tô hồng chế độ :

· “Chủ nghĩa huy hoàng, không ai chối bỏ

Không có người vượt thoát để tồn sinh !!!”

Nhưng bia đời như nắng rọi bình minh

Luôn soi rõ từng vết sâu tội ác

Của loài dã tâm với ngôn từ khoác lác

Đang tôn thờ chủ thuyết lai căn.

Hồn ai đó ?

Từ bao cõi vĩnh hằng

Xin về đây chứng kiến.

Tấm lòng chúng tôi, trọn đời Tâm Nguyện

Chí bền gan, xin vẹn Nghĩa Tình.

Dù ngăn cách Tử Sinh

Giữa hai bờ Nhật Nguyệt.

Dù có ai phá tan mộ huyệt

Đến nghìn sau hồn mãi còn đây.

Nhìn trùng khơi sóng nước dâng đầy

Gửi mơ về cố quốc.

Hồn vẫn sống trong lòng Dân Tộc

Vì hai chữ Tự Do.

Chiều GALANG bão tố sóng to

Hay tĩnh lặng trăng rơi thềm đá.

Sáng PINANG nắng xuyên rừng lá

Hay đêm vờn tiếng hát nhân ngư.

Hồn mãi còn đây, dù bia mộ hoang vu

Không tên tuổi – sá gì tên với tuổi !

Dù xác thân đã hòa chung cát bụi

Biển Đông còn - HỒN MÃI SỐNG THIÊN THU !

Võ Đại Tôn (Hoàng Phong Linh)

Galang – Pinang (Indonesia)

10.10.09 – 17.10.09.

Thursday, October 15, 2009

Đi Hoang


Ngày sung sướng nhất của mẹ là ngày được cha bảo lãnh cho sang Mỹ. Tội nghiệp mẹ, lấy cha tôi từ năm mười tám tuổi, mẹ ở với cha được có hai năm thì xảy ra biến cố lịch sử kinh hoàng. Tháng tư 1975, mẹ có mang tôi được sáu tháng, cha tôi trước đó mấy tuần, đi công vụ ra Phú Quốc rồi bị kẹt luôn ở đó, khi Dương Văn Minh đầu hàng, không có tàu về, ông đành theo chân đoàn người nhốn nháo lên máy bay, bay thẳng ra đảo Guam.

Cha mẹ tôi thất lạc nhau từ đấy, tôi ra đời không được thấy mặt cha, mẹ vất vả nuôi tôi một mình, gia đình bên ngoại đã di tản hết, mẹ nhất định ở lại chờ cha, nào ngờ ông đi biệt tích. Đáng thương cho mẹ, người thiếu phụ mới hơn hai mươi tuổi từ nhỏ sống trong nhung lụa nay bị vứt ra ngoài đời với đứa con còn trứng nước. Mẹ can đảm ngược suôi bán buôn, nuôi tôi lớn lên. Làn da trắng nõn khi xưa của mẹ bây giờ trở nên rám nắng, tóc mẹ khô vì gió sương nhưng mẹ còn đẹp lắm. Tám tuổi, tôi đã bắt đầu hiểu biết, tôi có thể nhận ra những ánh mắt si dại của những người đàn ông khi tới lui tiếp xúc với mẹ, có khi vì công việc, có khi chỉ là một cái cớ để gặp mặt. Trong số những người tới lui có cả mấy ông cán bộ cao cấp, một ông bác sĩ, một ông giáo sư… Nhưng mẹ không chú ý đến ai cả, mẹ khéo léo tránh né, đôi khi phải sợ hãi lẩn trốn, hẳn tình mẹ yêu cha sâu sắc vô cùng nên mẹ mới vượt qua được mọi cám dỗ, một lòng chung thủy với người chồng mất tích. Mười năm chờ đợi mỏi mòn, ngày nhận dược tin cha tôi còn sống và đang ở Mỹ, mẹ mừng chảy nước mắt, thế rồi giấy bảo lãnh, giấy xuất cảnh và sau cùng là ngày đoàn tụ.

Chuyến máy bay chở hai mẹ con tôi đã hạ cánh xuống phi trường Los Angeles lúc 12 giờ trưa. Bỡ ngỡ theo chân đoàn người vào bên trong, làm thủ tục nhập cảnh xong xuôi, hai mẹ con chờ cha tới đón với vẻ nôn nao không thể tả. Chuyến bay dài không làm mẹ mệt mỏi, hy vọng làm mắt mẹ long lanh, sung sướng làm má, môi mẹ đỏ hồng, tóc uốn kiểu mới, mẹ mặc một cái áo dẹp nhất màu xanh da trời là màu cha vẫn thích. Cả năm, cả tháng trước, mẹ nói liên miên về người chồng tuyệt vời, về người cha có tránh nhiệm, về những lời hứa hẹn năm xưa, và những dự tính trong tương lai…

o Rồi đây con sẽ có cha, không sợ ai bắt nạt nữa, cha con sẽ thương yêu con, lo cho con, con sẽ được ăn học tối nơi tới chốn và sẽ có một tương lai tốt đẹp.
o Còn mẹ sẽ không phải vất vả lo kiếm sống nữa, mẹ không còn phải lo lắng sợ hãi đủ thứ như trước đây. Hai mẹ con mình sẽ rất hạnh phúc, rất sung sướng… Tôi háo hức thêm vào.
o Dĩ nhiên rồi! Mẹ cười vui vẻ.
o Có phải bố nói nhà bố có vườn hả mẹ?
o Phải nói là nhà mình chứ sao lại nhà bố? Gia đình mình sắp đoàn tụ dưới một mái nhà rồi. Ừ, bố nói nhà không rộng lắm nhưng có một cái vườn có trồng hoa và còn nhiều đất trống.
o Nếu vậy mình sẽ trồng một cây ổi xá lỵ và một cây nhãn nghe mẹ?

Mẹ âu yếm củng nhẹ một cái vào đầu tôi:

o Mày chỉ nghĩ đến ăn, còn mẹ, mẹ thích trồng vài cây bông sứ…
o Thì trồng cả ổi, cả nhãn lẫn bông sứ.
o Cũng được. À để xem, nếu còn đất mẹ sẽ làm một giàn mướp, cha con rất thích ăn bông mướp xào với thịt bò.
o Con lớn rồi, đi học về con sẽ phụ với mẹ làm bếp.
o Không cần, con cứ lo học cho giỏi là được rồi.
o Nhưng mẹ sẽ bận lắm đấy!
o Có gì mà bận? bây giờ mẹ không phải buôn bán nữa, ngày ngày chỉ có việc lo cơm nước cho hai cha con.
o Nhưng mẹ sẽ đẻ em bé nữa chứ, có em mà không bận à?
o Con quỉ này! mới tí tuổi đã xen vào chuyện người lớn.

Mẹ đỏ mặt mắng yêu, bà làm mặt nghiêm, nhưng mắt bà sáng lên một niềm vui kỳ dị. Cứ thế, kẻ thêm người nếm, mẹ phác hoạ, con tô mầu, hai mẹ con tha hồ vẽ mộng và bây giờ cái mộng ấy sắp tới gần lắm rồi. Mẹ sốt ruột nhìn đồng hồ, sau cùng cha tôi cũng xuất hiện trễ hơn ba tiếng. Từ xa đi tới một người đàn ông tuổi trạc tứ tuần, người cao dong dỏng, mặc bộ đồ vest màu xám, tay cầm chùm chìa khóa.

- Cha con đó! Mẹ vội vã nói.

Tim tôi đập loạn, còn mẹ đứng bật ngay dậy, run rẩy nghẹn ngào, trông bà lảo đảo như người sắp té. Tôi tưởng cha tôi sẽ chạy nhanh tới và mẹ sẽ ngã vào đôi tay dang rộng của ông, nhưng tôi lầm, cha tôi không có vẻ gì vội vã cả, ông lừ đừ tiến tới, môi nở một nụ cười bình thản:

o Hai mẹ con đợi lâu chắc sốt ruột lắm hả? Ông nhìn mẹ giải thích, anh còn phải giải quyết cho xong vài công việc của sở trước khi nghỉ phép một tuần để lo cho mẹ con em.

Bây giờ ông mới quay sang tôi ngắm nghía:

o Nga đây hả? Trời ơi! con gái tôi xinh quá, lại đây với cha đi con!

Mặc dù giọng cha có vẻ nhiệt tình, nhưng ánh mắt của ông lạ lùng lắm, vừa có vẻ lo lắng băn khoăn, vừa có vẻ xa lạ khiến tôi không dám chạy a lại, nhào vào lòng ông như tôi vẫn tưởng tượng. Tự nhiên tôi thấy hụt hẫng chới với, bao nhiêu hy vọng, háo hức lúc ban đầu bỗng dưng xẹp cả xuống, tôi lặng lẽ bước tới, cúi đầu lí nhí nói:

o Thưa ba…

Và tôi oà khóc, bàn tay cha đặt trên vai tôi rơi xuống, ông nhìn tôi ngạc nhiên.

o Chắc nó cảm động. Mẹ nói, mắt bà cũng đỏ hoe.
o Thôi đi về, đừng khóc ở đây kỳ quá.. .

Cha nhăn mặt, hình như những giọt nước mắt cuả hai mẹ con tôi làm ông xấu hổ, ông kéo mẹ đi nhanh ra cửa. Tôi lủi thủi theo sau hai người và mấy cái va li to tướng đi về vùng đất mới, bắt đầu một cuộc đời mới.

Mấy ngày đầu, cha tôi thật vất vả chạy ngược chạy xuôi lo đủ thứ chuyện, nhưng rồi tuần lễ bận rộn cũng qua nhanh chóng, chiều chủ nhật, ông nói với mẹ:

o Thứ hai phải đi làm lại rồi, từ nay chỉ có cuối tuần anh mới về nhà.

Mẹ chưng hửng:

o Sao lạ thế? ngày thường mình không về nhà thì về đâu?

Cha đáp trơn chu, không lúng túng, dường như đã sửa soạn từ trước:

- Anh ăn ở luôn trong sở.

Mẹ hỏi có vẻ lo lắng:

o Sở mình làm có xa đây không?
o Xa lắm, cả mấy trăm cây số lận.
o Thế sao mình không thuê nhà ở gần để đi làm cho tiện?
o Ồ không được đâu. Cha quay mặt đi chỗ khác, tránh không nhìn mẹ, chậm rãi nói tiếp, nơi đó đắt đỏ lắm, lương thơ ký kế toán ba cọc ba đồng của anh không đủ đâu, mẹ con em ở tạm đây vậy, mai mốt khá lên sẽ hay.

Cái ngày khá lên đó không bao giờ có nên mẹ tôi vẫn sống kiếp đợi chờ như một người vợ không chính thức, một người tình lén lút. Cha tôi lâu lâu mới về nhà một lần, ân sủng ông ban cho không phải là tình yêu thương đậm đà mà chỉ là những món tiền nho nhỏ hai mẹ con đủ tiêu một cách tiện tặn.

Tôi đi học, lòng không vui vì bây giờ có cha mà cũng chẳng khác xưa là mấy. Mẹ trồng rau, trồng mướp chỉ mình mẹ ăn nên cũng nản, vườn tược bỏ hoang xác xơ tiêu điều và mẹ thì ủ rũ như chiếc lá héo. Những ngày cuối tuần mẹ vui gượng gạo, còn cha cố tình nói cười lớn tiếng nhưng sao tiếng cười của ông nghe như có vẻ giả tạo. Tôi xà vào lòng cha nói huyên thuyên đủ thứ chuyện. Cha giả bộ lắng nghe mà hồn như để tận đâu, cha có vẻ băn khoăn lo nghĩ và hình như không được khoẻ, tôi thôi không làm phiền ông nữa và lại rúc vào một xó ngồi xem TV. Không khí gia đình lạnh lẽo buồn tẻ nếu không muốn nói là ngột ngạt khó thở, tôi đâm tiếc những ngày còn ở quê nhà, vất vả khó khăn, nhưng sống với hy vọng thường đẹp đẽ biết bao, bây giờ thục tế khác xa với mộng, bảo sao tôi không chán nản?

Ở đời chẳng có bí mật nào có thể giữ kín được mãi, điều mà mẹ tôi nghi ngờ đã xảy tới. Vào một ngày thứ bẩy, cha tôi về nhà sớm hơn thường lệ, nhưng với vẻ mặt không vui. Ông vào phòng riêng nói chuyện với mẹ, một lúc thật lâu cả hai mới trở ra, mặt mẹ xám ngoét nhưng mắt mẹ ráo hoảnh, cha thì bơ phờ sượng sùng, lẽo đẽo theo sau vừa đi vừa phân trần:

o Mọi việc dĩ lỡ cả rồi, tôi đã có ba mặt con với người ta, mong mình thông cảm, chỉ vì hoàn cảnh… Nhưng tôi vẫn sẽ lo cho mẹ con mình.
o Không cần! Mẹ lạnh lùng nói, con tôi đẻ ra tôi nuôi, bao nhiêu năm nay có nhờ ông đâu? Bây giờ cũng vậy thôi, ông cứ yên tâm về với vợ con ông đi, tôi sẽ ra khỏi cuộc đời của ông. Cả con Nga cũng vậy, số nó không có cha, trước sau cũng không có cha…

Mẹ chỉ thẳng tay ra cửa, quát cha tôi phải cút ngay lập tức, cha vừa đi khuất mẹ mới quị xuống. Mẹ ốm hơn một tháng mới khỏi, cơn ghen của mẹ mới ghê khiếp làm sao, yêu càng đậm thù càng sâu, mẹ hối đã trao duyên lầm cho một kẻ bội bạc, mẹ tiếc tấm lòng chung thủy đã dành cho một người không xứng đáng, mẹ thề sẽ quyết trả thù. Mẹ dọn nhà khác, chỉ hai tuần sau khi khỏi bệnh, mẹ đã đi làm. Mẹ làm đủ thứ việc: dọn phòng trong khách sạn, bồi bàn bưng đồ ăn, bán hàng, cắt chỉ trong một tiệm may v..v.. nghĩa là bất cứ một việc gì có thể kiếm ra tiền, mẹ đều không từ nan, vì thế nên cuộc sống của hai mẹ con vẫn đầy đủ. Vật chất không thiếu thốn, nhưng tình cảm của mẹ dành cho tôi có khác xưa nhiều lắm. Chắc vì tôi là giọt máu của người chồng bạc tình, nên mẹ thường nhìn tôi với cặp mắt nghiêm khắc, oán hận khiến tối không dám lại gần, hình như đã có một hố sâu ngăn cách giữa hai mẹ con.

Vất vả như vậy nhưng mẹ vẫn đẹp, một cái đẹp quyến rũ của một người đàn bà mới ngoài ba mươi tuổi, lại thiếu gì ong bướm dập dìu … Bây giờ mẹ không gìn giữ nữa, gìn vàng giữ ngọc cho ai? mẹ chỉ muốn trả thù, cha có đau mẹ mới hả dạ, mẹ buông thả, mẹ chỉ sống cho mẹ. Như một con chim mới xổ lồng tha hồ bay nhảy, mẹ đi chơi với nhiều người đàn ông. Có một người đi lại với mẹ nhiều nhất, một hôm dọn về ở luôn trong nhà, ăn ở, chung đụng như hai vợ chồng. Hai người không làm đám cuới nhưng có ký hôn thú hẳn hòi.

o Đây là ba ghẻ của con, kêu bằng dượng Huân. Mẹ giản dị nói, dượng Huân góa vợ còn mẹ cũng chết chồng - mẹ coi cha như đã chết ít ra là trong lòng của mẹ - lấy nhau là hợp lý rồi, con không phản đối chứ?

Có gì mà phản đối? mà phản đối có kết quả không? Mẹ có hỏi ý kiến của tôi đâu? mẹ chỉ tuyên bố một sự đã rồi, muốn hay không muốn tôi cũng phải chấp nhận. Mới mười một tuổi đầu, tôi đã nếm đủ mùi cay đắng, đã dạn dày với đau khổ, nên không cảm thấy đau hơn, tôi thản nhiên đón nhận một cuộc đổi đời lần nữa.

Cha có vợ khác, mẹ đi lấy chồng, tôi là một đứa trẻ bị bỏ rơi. Trước kia xa cha nhưng còn có mẹ, bây giờ có mẹ mà cũng như không, mẹ nuôi tôi như nuôi một cục nợ, còn dượng Huân thực ra không phải là một người cha ghẻ hà khắc, ác độc nhưng ông đối xử với tôi lạnh nhạt như người dưng nước lã. Cũng là sự thường thôi, đòi hỏi một người không cùng máu mủ, huyết thống phải yêu thương mình quả là một điều vô lý. Tôi sống thui thủi trong một thế giới không có tình thương, nhất là từ khi mẹ sanh em trai, mẹ dồn hết tình thương cho em bé, cho cha của em bé, tôi trở thành một cái bóng mờ, một người dưng sống bên lề cuộc đời của mẹ.

Dượng Huân có một đứa con trai riêng tên Tiến, mười tám tuổi, đã học xong trung học. Được cha đóng tiền cho học đại học, nhưng Tiến thích ăn chơi hơn là thích học, hắn thuê appartment ở riêng để tự do giao du bạn bè khỏi bị kiểm soát, thỉnh thoảng mới về nhà tiếng là để thăm cha, nhưng thực sự là để xin tiền, cho bao nhiêu cũng không đủ, nên mỗi lần gặp mặt, hai cha con thường hay hục hặc. Một lần Tiến đòi một số tiền lớn, bị cha mắng, hắn lớn tiếng cãi lại, hai cha con cãi nhau ầm ầm như nhà có giặc, mẹ chán nản bỏ vào phòng riêng khóa cửa lại. Một lúc sau, tiếng cãi cọ nhỏ dần rồi im bặt, Tiến trở ra với vẻ mặt hầm hầm, hắn dơ nắm dấm lên de dọa:

o Rồi sẽ biết tay!

Thấy tôi đứng lơ láo, hắn cau mày hừ một tiếng rồi cười khảy:

o Đừng nhìn anh bằng cặp mắt đó em gái! lớn lên rồi em cũng sẽ bắt chước anh thôi, để coi…

Nói xong,Tiến bỏ ra xe rồ máy thật lớn, phóng vút đi. Thật tình tôi không ghét hắn, lần nào đến hắn cũng cho tôi quà, khi thì một gói kẹo, khi thì một cuốn sách hình hoặc một con búp bê. Hắn thường nhìn tôi với cặp mắt êm dịu và những món quà của hắn cũng thay đổi theo thời gian, mới đầu toàn là đồ chơi, sau đến sách truyện và mấy lúc gần đây là quần áo, kẹp tóc v..v.. tôi đã mười bốn tuổi, đâu còn con nít nữa.

Sau lần đó, Tiến đi đâu biệt tăm, hai năm sau mới trở về. Lần này hắn xuất hiện oai phong như một ông hoàng, hắn mặc đồ vest sang trọng, lái chiếc xe Jaguar mới tinh. Hắn không hỏi tiền cha hắn nữa, trái lại hắn còn tặng cho ông và mẹ tôi một cái TV màu khổ lớn, một cái lap top computer kiểu mới, toàn những đồ đắt tiền, và cho tôi một sợi dây đeo cổ bằng vàng có mặt hình trái tim.

Thoạt nhìn thấy tôi, hắn reo lên thích thú:

o Trời ơi Nga! em lớn nhanh quá, trên cả sức tuởng tượng của anh.

Thế rồi trong khi tôi đeo thử sợi dây, hắn nghiêng đầu ngắm nghía rồi trầm trồ khen ngợi:

o Em đẹp lắm!

Tôi mắc cở cúi mặt nhưng trong lòng cảm thấy hãnh diện, sung sướng. Mới mười sáu tuổi, tôi đã có những đường nét của một thiếu nữ, thân hình cao dong dỏng giống cha tôi, bộ ngực nẩy nở, khuôn mặt trái soan giống hệt mẹ tôi với sống mũi dọc dừa và đôi môi mọng xinh đẹp. Tôi biết tôi đẹp và tôi thường hãnh diện đón nhận những tia nhìn chiêm ngưỡng của bọn con trai trong trường.

Tiến vẫn nhìn tôi đăm đăm, tôi cúi mặt tránh ánh mắt của hắn và rụt dè hỏi:

o Dạo này anh làm gì mà giầu thế?
o Làm áp phe, trúng mối nên phát tài... Em cần tiền không?

Tôi lắc đầu:

Em có tiêu xài gì đâu? Tội nghiệp em quá, sống cứ như một nữ tu, em không mơ ước gì à? Em chỉ muốn học thật giỏi. Học giỏi để làm gì? có phải để khi ra trường đi làm kiếm được nhiều tiền? Xem anh nè, anh có học đâu mà vẫn thiếu gì tiền… Nhưng nghề áp phe của anh chắc là bấp bênh lắm? Đúng vậy, bấp bênh và nguy hiểm nữa. Nhưng cần gì, tới đâu hay tới đó, lo xa chi cho mệt. Hãy sống với hiện tại, hưởng thụ những gì mình đang có, nghĩ đến tương lai làm quái gì.

Tôi ngập ngừng:

o Em khác, em chỉ muốn có một nghề vững chắc.

Tiến cười xoà:


o Ừ thôi, mỗi người một quan niệm sống, em cứ sống theo ý em đi.

Ngưng một lúc, hắn lại tiếp tục:

o Khi nào cần anh giúp đỡ, em cứ tìm đến anh, lúc nào anh cũng sẵn sàng.

Tiến biên cho tôi địa chỉ và số điện thoại của hắn, dặn tôi giữ kỹ, tôi gật đầu và bỏ vào cặp sách. Tiến nhìn tôi bằng cặp mắt đắm đuối một lúc rồi mới bỏ đi. Dạo này cha hắn cũng nhìn tôi bằng cặp mắt như thế, thái độ của ông thay đổi khác hẳn, không còn lạnh lùng như trước, ông thường chở tôi đi học, và thỉnh thoảng bênh vực tôi mỗi khi tôi bị mẹ la rầy.

Sinh nhật thứ mười sáu của tôi, Tiến tặng tôi một cái áo dạ hội thật đẹp, mua của nhà hàng Nordstroms. Hai tuần sau, tôi mặc áo đó để đi dự một đám cưới, trong lúc đợi mẹ tôi trang điểm, tôi đứng trước gương ngắm nghía áo mới, dượng Huân lại gần vuốt tóc tôi và khen tôi đẹp. Hôm sinh nhật tôi, dượng cũng cho tôi một chai nước hoa đắt tiền và một bộ đồ trang điểm.

o Lớn rồi, con cũng cần phải chưng diện một tí để khỏi thua kém các bạn bè.

Ông nói như một người cha quan tâm đến con gái, và tôi ngây thơ đón nhận. Từ đó thỉnh thoảng ông vẫn cho tôi tiền và dặn dừng cho mẹ biết, ông nói:

o Mẹ con lúc nào cũng hà tiện, bà ấy quên rằng con đã lớn rồi, cần phải làm dáng, ăn diện chải chuốt cho đẹp để mai mốt còn đi lấy chồng nữa chứ.

Mấy lúc gần đây, ông cứ nhìn tôi nháy nhó, miệng thì chúm chím cười tình, đôi khi bị mẹ bắt chợt thì ông lại vội vàng làm mặt nghiêm. Có lần mẹ đi vắng, tôi đang hút bụi nơi phòng khách thì ông chạy tới bảo:

o Để dượng làm dùm cho, con đi học bài đi.

Nói xong ông cầm lấy máy hút bụi và cầm luôn tay tôi, tôi giật ra và bỏ chạy, ông không đuổi theo mà chỉ cười:

o Cái con nhỏ này lớn xộn rồi mà vẫn nhát như con nít!

Một buổi sáng, tôi sửa soạn đi học, dượng chờ tôi ở cửa, dúi nhanh vào ngực áo tôi tờ giầy một trăm đô:

o Cho con cầm lấy ăn quà.

Dượng để tay lên ngực tôi hơi lâu, cho tới khi có tiếng chân của mẹ tôi lịch kịch từ trên cầu thang đi xuống dượng mới buông ra. Tôi sợ lắm nhưng chưa biết phải nói với mẹ tôi như thế nào thì dã xảy ra một biến cố ghê gớm.

Vào một buổi sáng thứ bảy, như thường lệ, em tôi phải đi tập đá banh với đội học sinh nhỏ của trường, nơi tập là một sân vận động nhỏ cách nhà chừng vài dặm. Dượng vẫn thường lái xe cho em đi, ở đó chờ cho tới khi tập xong lại đưa em về, nhưng hôm đó dượng kêu mệt, không đưa em đi được và bảo mẹ tôi đi thế. Tôi ở nhà học bài, chương trình lớp 10 khá nặng nhất là phần Toán lý hóa. Học một lúc thấy nhức đầu nên tôi vào phòng riêng nằm nghỉ. Đang thiu thiu ngủ, chợt nghe một tiếng cạch nơi cửa, tôi giật mình mở choàng mắt và thấy cánh cửa đang từ từ mở ra, rồi dượng Huân ló đầu vào ngó dáo dác, mắt dượng đỏ ngầu như người say rượu. Hoảng sợ, tôi ngồi bật dậy, nhưng chưa kịp la lên thì nhanh như chớp, dượng đã lao tới, bịt chặt lấy miệng tôi, gằn giọng nói:

o Nhà đi vắng hết rồi, đừng kêu vô ích!

Tôi ú ớ, lắc qua lắc lại cố gỡ ra nhưng không được, dượng một tay vẫn bịt miệng tôi, tay kia ôm choàng qua ngực tôi xiết chặt, ông vùi đầu vào ngực tôi vừa thở hổn hển vừa thì thào đứt quãng:

o Cho dượng thương một tí… Đừng sợ, không sao đâu, chóng ngoan!

Hơi thở của ông nóng ran một bên má, vừa sợ hãi lẫn ghê tởm, tôi vùng vẫy thật mạnh cố xô ông ra. Ông như một con thú đang hăng máu, tôi chống cự mãnh liệt bằng tất cả sức lực của tuổi trẻ, tôi vừa đấm đá vừa cắn cấu… Sau cùng ông đành phải lơi tay, tôi vừa vật lộn vừa la hét ầm ỹ, chợt có tiếng chân chạy rầm rập trên cầu thang, ông hoảng sợ vội buông tôi ra. Tiến xuất hiện như một hung thần, không nói không rằng, Tiến túm lấy cha đấm một cú như trời giáng vào quai hàm, ông ngã chúi xuống, Tiến dựng ông dậy rồi cứ thế đấm đá túi bụi, hai cha con quần thảo như hai con gấu. Tôi quơ vội cái gối che vai áo rách toạc, chạy vội vào phòng tắm khóa chặt cửa lại. Một lúc sau có tiếng gõ cửa rồi tiếng Tiến gọi gấp rút:

o Nga, Nga! mở cửa mau, em không sao chứ?

Tôi run lẩy bẩy, ở trong nói vọng ra:

o Em không sao cả, cám ơn anh đã cứu em kịp lúc... Ổng đâu rồi?
o Đi rồi, đi nhà thương rồi.

Tôi hốt hoảng mở cửa, ló đầu ra quan sát:

o Trời ơi! anh đánh ổng tới bị thương? có nặng lắm không?
o Vài cú đấm ăn thua gì, vẫn còn lái xe được mà. Thứ quân cầm thú đó phải được cho một bài học.

Sau vụ đó, mẹ thu xếp cho tôi về ở với cha. Tiến đưa tôi ra phi trường, hắn nắm tay tôi dặn dò:

o Có chuyện gì cứ phone cho anh, anh sẽ giúp em giải quyết. Hãy tin anh, anh không có ý đồ xấu với em và không bao giờ bỏ mặc em đâu.

* * *

Tôi về ở với cha, mẹ kế không hoan nghênh, cũng không phản đối, nuôi thêm một miệng ăn đâu có tốn kém bao nhiêu, hơn nữa tôi đã lớn, có thể giúp được khối việc. Cha bận rộn nên ít khi ngó ngàng, mẹ kế đương nhiên coi tôi như một đứa ở giúp việc khỏi phải trả lương, sai vặt tối ngày. Đi học về nhà, chưa kịp thay áo đã nghe tiếng réo:

o Nga! ủi cho tao cái áo!
o Nga! trễ rồi sao chưa dọn cơm?
o Nga! rửa bát xong nhớ lau bếp đi nghe chưa? để đồ ăn rơi vãi, kiến sẽ bu đen ngòm cho coi.

Các em cũng bắt chước mẹ, đua nhau sai bảo:

Chị Nga! chiên cho em quả trứng! Chị Nga! hút bụi phòng em đi! Chị Nga! quần áo thay hôm qua đã giặt chưa? Chị Nga! áo em đứt cúc rồi... Chị Nga! nhớ thay khăn trải giường cho em!

Tôi làm luôn tay không dám kêu ca, chỉ những khi họ về phòng rồi, tôi mới được yên thân ngồi học bài, tôi chỉ lấy sách vở làm vui.

Thời gian qua mau, hết hạ tới thu, đông rồi mùa xuân cũng qua và mùa hè lại tới. Cha tôi được nghỉ phép hai tuần, bèn tổ chức cho gia đình đi Hawai nghỉ mát. Ôi chao bãi biển Hạ Uy Di, ai nghe mà không mê? tôi và các em đều háo hức, nhưng mẹ kế lừ mắt nói:

o Mày không được đi, phải ở nhà coi nhà.

Bà đưa các em tôi đi mua sắm những đồ dùng đi biển và quần áo tắm, không đả động gì tới tôi cả. Lựa lúc bà không có nhà, tôi mới rụt dè hỏi cha:

o Ba ơi! con cũng muốn đi Hawai, cho con đi nghe ba?
o Ừ, đi cả gia đình mà.
o Nhưng mẹ bảo con phải ở lại coi nhà.
o Để ba sẽ xin với mẹ con.

Chả biết ông nói năng thế nào mà bữa cơm chiều hôm đó mẹ kế không ăn, giận dỗi bỏ vào phòng, cha đi theo năn nỉ. Bốn dứa chúng tôi ngồi ở bàn ăn, lắng nghe tiếng hai người cãi nhau ở trong phòng, tiếng cha tôi nhỏ nhẹ:

o Mình làm vậy không công bằng, mấy đứa kia chỉ ở không ăn chơi, còn con Nga suốt ngày đầu tắt mặt tối...

Tức thì nghe bà rít lên:

o Mấy đứa kia còn nhỏ, còn nó lớn rồi. Con gái lớn phải học ăn học làm, chia xẻ bớt công việc với cha mẹ chứ, nhong nhỏng ăn chơi hoài đâu có được?
o Nó ăn chơi hồi nào? đi học về, nó phải làm hết việc nhà, tôi muốn mình phân chia công việc cho đồng đều.
o Đồng đều làm sao? mấy đứa kia nhỏ hơn nó mà, còn nó muốn ăn thì lăn vào bếp, nó kiếm đồ nấu nướng cho nó chứ giúp gì tôi? Xí, đi học từ sáng đến trưa, về còn lo làm bài, thì giờ đâu mà giúp? ông chỉ giỏi tài bênh!
o Thôi được rồi, nhưng lần này đi nghỉ mát cả nhà, phải cho nó đi chứ?
o Nó đi rồi ai ở nhà coi nhà?
o Cứ khóa cửa lại cũng được.
o Dạo này trộm cắp như rươi, ông không đọc báo thấy có nhà đi vắng, trộm bẻ khóa vô lấy hết đồ đạc, lúc về chỉ còn căn nhà trống.
o Mình khéo lo xa, đâu phải nhà nào đi vắng cũng bị trộm hết?
o Thôi được, ông đã muốn vậy thì để tôi với mấy đứa nhỏ ở nhà, cho hai cha con ông đi với nhau.

Có tiếng nức nở sụt xịt và tiếng cha tôi thở dài, Xuân Mai nhìn tôi trách:

o Khổ quá, mẹ khóc rồi chị thấy chưa? tại chị hết đó!
o Chị có làm gì đâu?
o Còn không à? chị ỏn thót với cha nên cha mới la mẹ, chị chỉ muốn cha ghét hết bọn tôi chị mới hả dạ.

Kim Chi cũng thêm vào:

o Chị là đầu dây mối nhợ của những bất hòa trong gia đình này, trước kia khi chưa có chị, cha có bao giờ lớn tiếng với mẹ đâu.

Tuấn thì im lặng không nói gì nhưng nó nhìn tôi bằng cặp mắt oán trách. Tôi ứa nước mắt khóc tủi cho thân phận. Sáng hôm sau, tôi thoái thác nói với mọi người là tôi không muốn đi nữa vì trong người không được khỏe, hơn nữa tôi còn phải để thì giờ học thêm sửa soạn cho kỳ thi tốt nghiệp trung học niên khoá tới. Ai cũng biết đó chỉ là một câu nói giả vờ, mẹ kế bĩu môi, các em lườm nguýt, còn cha tôi thì nhìn tôi bằng cặp mắt ái ngại.

Mùa hè trôi qua nhanh chóng, thấm thoát lại đến ngày khai trường, năm nay tôi học lớp 12, năm chót của ban trung học, bài vở nhiều nên học hành cũng phải tốn nhiều thì giờ.

Một lần tan học, tôi về nhà hơi trễ, vừa bước vào cửa đã nghe tiếng quát:

o Mày đi đâu giờ này mới về hả? thứ đồ con gái hư!
o Con đến nhà Oanh để học bài. Tôi đáp.

Oanh là bạn cùng lớp với tôi và cũng ở gần nhà, nhưng mẹ kế tôi không ưa mẹ Oanh, bảo rằng bà này hay làm phách, nghe tôi nói đến nhà Oanh bà càng ghét:

o Học ở nhà không được sao? Tao cấm mày không được sang nhà hàng xóm ngồi lê đôi mách, lại kể lể chuyện mẹ ghẻ con chồng, nói xấu tao chứ gì?

Cha tôi vừa đi làm về, nghe thấy thế thì buột miệng can thiệp, ông bảo mẹ kế:

o Nó đến nhà bạn thì đã sao? Con bé ấy cũng ngoan ngoãn lại học giỏi, chúng nó chỉ bảo bài vở cho nhau.

Thế là châm ngòi cho một cuộc cãi lộn, mẹ kế hét lớn:

o Tôi biết ông bênh con riêng để nó lên mặt không coi tôi ra gì. Trời ơi! sao số tôi khổ thế này? chỉ tại ngày xưa tôi dại dột nghe lời đường mật của ông lấy một người đã có vợ có con, bây giờ mới thấy hậu quả. Ông có coi tôi là vợ của ông đâu? ông chỉ thương con riêng của ông, tôi biết thừa ông vẫn dấm dúi tiền riêng cho nó, bảo sao mấy đứa kia không ganh tị? Ông làm như thể chúng nó không phải là con ông vậy.

Thế rồi bà bù lu bù loa khóc kể, cha tôi bịt tai bỏ vào phòng riêng khóa cửa lại, mẹ kế khóc lóc một hồi rồi lái xe đi biệt tích từ trưa tới tối. Không khí gia đình từ khi có tôi trở nên xào xáo. Tôi không muốn là nguyên nhân của các cuộc cãi vã nên cố thu hình nhỏ nhoi lại, cha tôi cũng muốn nhà cửa êm đẹp nên nhắm mắt làm ngơ, để mặc bà muốn làm gì thì làm. Cha mải lo kiếm tiền, dần dà mọi việc trong nhà đều do mẹ kế quyết định, ông chiều theo ý bà vì không muốn cãi cọ lôi thôi ông chỉ muốn yên thân. Cha bận nhiều việc lớn, đâu có thì giờ lo việc nhỏ là lưu tâm đến đứa con xấu số, chắc cha cho rằng nuôi tôi cơm ngày ba bữa, quần áo lành lặn là đủ bổn phận nên lương tâm ông ngủ yên. Tôi âm thầm chịu đựng mọi sụ ngược đãi, bất công mà không dám hé môi, bởi vì mỗi khi có chuyện chống đối thì mẹ kế lại làm mình làm mẩy, đập phá đồ đạc, la hét om xòm hoặc bỏ nhà ra đi. Nhà cửa không khác gì địa ngục, cha bực mình trút hết tức giận lên đầu tôi, coi tôi như một kẻ chuyên gây rối, một đứa con sinh ra chỉ để gây phiền cho cha mẹ, một thứ người thừa, bỏ thì thương vương thì tội, các em cũng đối xử lạnh nhạt, thành ra sống giữa những người thân mà tôi cô đơn như người sống trong sa mạc.

Cùng tuổi mười bảy, các bạn tôi sống hồn nhiên vô tư và thường hay mộng mơ, còn tôi thực tế hơn chúng nó nhiều, tôi đã có những suy nghĩ của một người già trước tuổi, tôi thường băn khoăn tự hỏi tương lai sau này rồi sẽ ra sao và tôi lo sợ. Tôi biết muốn thoát khỏi cuộc đời đen tối, muốn vươn lên chỉ có cách là nhờ vào học vấn, vì vậy tôi để hết tâm trí vào việc học và tôi học rất giỏi, tôi đậu thủ khoa kỳ thi tốt nghiệp trung học năm đó. Hôm mãn khóa, nhà trường tổ chức một buổi lễ lớn. Súng sính trong bộ lễ phục tốt nghiệp, tôi được hân hạnh đại diện toàn thể học sinh cuả trường lên đọc diễn văn phát biểu cảm tưởng, giã từ thầy cô, giã từ mái trường thân yêu, cả hội trường đều cảm động, tiếng vỗ tay như pháo ran. Trước khi trao mề đay thủ khoa và choàng vòng hoa danh dự, ban giám hiệu mời phụ huynh học sinh lên diễn đàn để chụp hình kỷ niệm và cùng chia xẻ niềm hân hoan với con em. Tôi xẻn lẻn nói:

o Má em ở xa, còn ba em bận. ..

Và tôi tủi thân ôm mặt khóc. Như thế đấy, ngày vui đáng ghi nhớ của tôi, niềm hãnh diện của tôi, mà cả cha mẹ và các em của tôi đều không tới dự. Có ai thèm quan tâm đến một người thừa, một cái bóng mờ? tệ hơn nữa một chướng ngại vật trên đường đi của họ. Chỉ có Tiến xuất hiện vào phút chót, hắn lái xe tới nơi vừa kịp. Bước lên bục cao diễn đàn, Tiến choàng mề đai và vòng hoa danh dự vào cổ tôi, vừa ghé tai tôi thì thầm dỗ dành:

o Nín đi, đừng khóc! van em đừng khóc nữa.

Chiều hôm đó, tôi đi chơi với Tiến mãi đến nửa khuya mới về. Căn nhà lạnh lẽo tối om, vắng vẻ không một tiếng động, mọi người đã đi ngủ cả, cũng tốt thôi vì khỏi phải đương đầu với cơn thịnh nộ của cha và mẹ kế, cơn thịnh nộ chắc chắn sẽ bùng nổ dữ dằn ghê gớm khó mà tưởng tượng. Mấy hôm trước, vô tình tôi đã nghe lóm được cuộc đối thoại giữa cha và mẹ kế về số phận của tôi:

o Bây giờ ông tính sao? học xong rồi phải giao việc làm cho nó chứ? Tôi tính cho nó ra phụ tiệm ăn, mướn người ngoài vừa tốn kém vừa sợ gian lận. Ông thấy vậy có được không? chẳng lẽ cứ để nó ăn không ngồi rồi suốt ngày. Hay ông định cho nó học lên nữa? học để làm bà vương bà tướng gì? Tôi nói cho ông biết tôi chịu hết nổi rồi, nuôi con ông cho tới mười tám tuổi là xong bổn phận. Nó phải tự lập, không có quyền sống bám nữa, đối với pháp luật, chúng ta cũng đã hết trách nhiệm.

Cha tôi xuôi xị:

o Được rồi tùy ý bà, nó là con, đâu có quyền phản đối. Bà muốn gì thì cứ bảo nó, tôi bận lắm đâu có thì giờ lo cái chuyện nhỏ nhặt đó, nội việc điều hành cái tiệm sửa xe hơi cũng đủ làm tôi mệt ứ hơi. Làm manager trách nhiệm nhiều lắm, đầu óc lúc nào cũng căng thẳng, tôi không muốn phải nhức đầu thêm vì ba cái chuyện lặt vặt ở trong nhà. Bà làm sao đó thì làm, miễn sao êm đẹp thì thôi.
o Nếu vậy thì ông đã đồng ý rồi phải không? Nhưng ông là cha nó, ông nói nó mới nghe, tôi là má ghẻ, nói ra nó trả treo mang tiếng.
o Làm gì có chuyện đó, nó vẫn yêu mến bà như má ruột của nó vậy.

Mẹ kế bật lên một tràng cười mỉa mai:

o Chả dám đâu! Nó mà thương ai? nếu nó thương má ruột nó thì nó đã chẳng về đây. Má ruột nó còn vậy, huống chi má hờ là tôi, bắt nó nghỉ học để đi phụ bếp, đố khỏi nó oán. Thiệt tôi dại hết sức mới đi ưng một người đã có vợ con như ông…
o Nữa, bà cứ lập lại cái câu đó hoài.
o Chứ không à? lấy một người độc thân, tôi đâu có khổ thế này? đã là vợ thừa lại còn mang tiếng mẹ ghẻ con chồng. Mà đứa con gái của ông coi bộ không vừa đâu à nghe? nghe đâu nó có bồ từ năm mười sáu tuổi, cái thằng bụi đời chết tiệt nào đó. Ông không dạy dỗ nó, coi chừng có ngày sẽ phải làm ông ngoại của những đứa cháu không cha cho coi!

Ôi! câu nói mới ác độc, mới tàn nhẫn làm sao. Nhưng có lẽ cũng đúng, bây giờ tôi chưa hư nhưng mai mốt rồi cũng sẽ hư, hoàn cảnh của tôi trở nên hư hỏng là chuyện dĩ nhiên, không hư mới là chuyện lạ. Số kiếp đã an bày, mọi cố gắng vươn lên đều vô ích, trông mong gì ở người cha chỉ muốn yên thân nên trốn trách nhiệm? Đã đến lúc phải đi thôi, cái nhà này có gì mà lưu luyến? đây có phải là gia đình của tôi không? chắc chắn là không rồi, tôi chỉ là một người sống nhờ, chén cơm họ cho sao mà khó nuốt… Nếu chỉ cần chén cơm, tự tôi cũng có thể kiếm được, cần gì phải đợi mẹ kế bố thí, mẹ kế quyết định số phận?

Hỡi người cha nhu nhược, ích kỷ, hỡi người mẹ hờ hững, vô tình! cha mẹ tạo ra con, cha mẹ có nghĩ rằng cha mẹ sẽ phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của con hay cha mẹ chỉ nghĩ đến mình, đến hạnh phúc riêng tư của mình mà phủi tay với hòn máu vô tội?

Tôi thèm một tình thương, thèm một vòng tay che chở, thèm một không khí gia đình ấm cúng, điều mơ ước đó có gì quá đáng không? Tình thương chắc là một thứ xa xỉ nên với mãi không tới làm tôi lao đao chới với, tôi chán nản rồi. Hãy thôi đi tìm ảo ảnh, hãy nhìn vào thực tế để mà tỉnh mộng đi cô bé dại khờ! Hãy chấp nhận số phận, đừng mơ mộng hão nữa, tương lai của cô có gì hứa hẹn? Cô muốn học giỏi, cô muốn trở thành một người thượng lưu? đừng có mà nằm mơ! Hãy đi đi thôi, sự ra đi của cô là đúng lúc rồi, chần chờ gì nữa? Không ai vì cô mà lưu luyến đâu, mẹ kế chắc chắn sẽ vui mừng vì nhổ đi được một cái gai, các em cô có tiếc là tiếc đã mất một người để sai vặt, còn cha, nếu cha có ân hận thì cha cũng sẽ chẳng làm gì để cứu vãn, cha đâu có thể hy sinh hạnh phúc của cha để cứu vớt cuộc đời của một đứa con riêng? cha còn có vợ đẹp, cha còn những đứa con khác...

Tôi lau nước mắt, lẳng lặng về phòng xếp quần áo và vài thứ đồ dùng lặt vặt vào một cái túi sách nhỏ, rồi gọi cho Tiến:

o Tiến ơi, đến với em đi! đêm nay em sẽ ra đi với anh.
o Em nghĩ kỹ chưa? Tiến thở dài, anh yêu Nga, nhưng sống với anh cuộc đời của em sẽ bấp bênh lắm đấy. Em dã biết hết sự thực về cuộc đời của anh chưa? biết anh làm nghề gì chưa? Anh là dân bụi đời, anh sống bằng nghề buôn bán ma túy…
o Em biết, nhưng em không cần, anh chả từng nói với em hãy sống cho hiện tại, đừng nghĩ dến tương lai. Chúng mình không có tương lai, nhưng ít ra cũng có hiện tại. Ở đây em không có gì hết, không có tương lai, không có nhân phẩm, không có tình thương, không có cả quyền làm người, không có gì hết… Người ta cũng chỉ coi em như một đứa con hoang thôi.

Giọng tôi nghẹn lại, sũng nước mắt, Tiến vội vã nói:

o Anh sẽ tới ngay!

Nói xong hắn cúp máy, tôi cũng đặt điện thoại xuống, thừ người nghĩ ngợi, tôi không yêu Tiến nhưng tôi cần một điểm tựa và tôi cần phải thoát ra khỏi cái nhà này, tôi cần một nơi để mà đi tới, mặc cho số phận đẩy đưa, tôi buông tay rồi, đi bụi đời với Tiến dù có thế nào cũng còn hơn là phải sống dưới cái mái nhà kỳ quái này.

Nước mắt ngập mi chảy loang trên má, tôi vừa thu xếp đồ đạc vừa khóc ròng. Đêm đã khuya lắm, ánh trăng lạnh lẽo chiếu chênh chếch qua khung cửa sổ, hắt bóng những song cửa lên tường thành những vệt dài, một con chim vạc bay ngang cất tiếng kêu ảo não, thế giới về đêm sao bí mật và đầy vẻ hãi hùng.

Có tiếng xe ngừng ngay trước cửa nhà, xe của Tiến. Lặng lẽ, tôi mở cửa bước ra, không ngoái lại, không lưu luyến, không hối tiếc, tôi bước sâu vào bóng đêm, bắt đầu những bước chân đi hoang.

PHƯƠNG – LAN